Hà và Lân hai người một ngựa băng qua vạt rừng u tịch.
Đường đêm tối mịt mù, lá cây che kín lối, nếu không phải vì Ô Di Hà đã băng qua cánh rừng này không biết bao nhiêu lần, lại thông thạo phương pháp định hướng bằng tinh hà trên trời cao, hắn cũng khó mà định vị được.Sau một hồi hành tẩu, hai người họ tới trước một ngôi chùa nằm giữa rừng.
Cây cối mọc um tùm giữa các khe nứt trước bậc thềm, các bức tượng đặt ngoài sân chùa đều bám bụi kín mít.
Dù cho có vẻ như ngôi chùa đã bị bỏ hoang chẳng ít lâu, xung quanh vẫn cảnh sắc vẫn vô cùng tĩnh mịch, tứ bề sâm nghiêm.Thừa Lân cột con ngựa của mình bên một gốc cây, tảo bộ xung quanh, thưởng mãn kiến trúc của ngôi chùa.
“Cột trụ đều làm từ gỗ quý, tượng lại đúc từ nham thạch.
Nơi này quả thực đáng một gia tài.
Thật đáng tiếc không còn ai lui tới.”Ô Di Hà mới tiến lại gần, trong giọng có phẫn uất.
“Trước nơi đây là đền thờ tổ vật Nữ Chân, nhưng đến thờ vua Hi Tông, quốc vương sùng Hán học, lại dùng hết quốc khố vào các công trình Phật pháp xa hoa, nên mới có nhà chùa này ở đây.
Vua bên ngoài thì sùng Phật giáo, nhưng lại ham thích dùng hình ngục, sát hại bá tánh, vậy thì chẳng trách sao dân chúng oán thán, không tin vào lời răn dạy của Phật pháp? Người Thiết Lĩnh chúng tôi ba đời nay vẫn thờ vật tổ.
Tổ vật của thần linh sẽ cho chúng ta sức mạnh, còn ăn chay thanh tịnh thì cũng vẫn thành nấm mồ xanh cỏ thôi.
Sang đời vua Thế Tông, ta thấy cấm du nhập Phật pháp là đúng lắm.”Gia đình Thừa Lân vốn sùng Đạo giáo, nhưng vì loạn thế mà phải động binh.
Đạo giáo và Phật giáo tuy nhiều khác biệt, nhưng nội việc tôn trọng các tôn giáo khác thì cả hai đều giảng giải.
Thừa Lân vốn nhận thấy nhiều ưu việt trong các quan niệm du nhập từ Tống triều phía Nam.
Vả lại vua Thế Tông dù một mặt ngăn cản Hán hóa, nhưng vẫn mở đường ngôn luận cho Đạo giáo và Nho giáo.
Giờ đây thiên hạ loạn lạc, xã tắc lung lay, dân chúng cần cơ sở để tịnh tâm không giao động, cần quy tắc để hành xử đúng mực, cần đạo đức để ngăn bản thân làm chuyện xằng bậy.
Tổ vật giáo không răn dạy ai điều đó cả.Dù nghĩ trong đầu là vậy, nhưng Thừa Lân giữ im lặng.
Ngay lúc này chàng không muốn tranh cãi với nghĩa huynh của mình.“Ta đưa đệ đến đây không phải để ngắm cảnh,” Dứt lời, Hà rút thanh đại đao hắn giắt sau lưng ra.
Thanh đao của hắn mang tên Bán Nguyệt Đao, lưỡi đao cong tựa hồ lưỡi liềm, với kẻ đủ khéo léo và dồi dào nội công, có thể bóp chết kẻ địch như một con trăn xiết mồi.
“Đệ liệu đã bao giờ nghe qua về thuấn bộ của Tảo Y Giáo?”“Đệ chưa nghe tới.”“Cũng phải thôi.
Tảo Y Giáo chỉ là một giáo phái nhỏ, kì thực công pháp không có gì nổi trội.
Nhưng đệ có biết tại sao giáo phái này tồn tại trước cả khi Liêu quốc ra đời và vẫn tồn tại kể cả sau khi Liêu quốc sụp đổ không?”Thừa Lân lờ mờ hiểu ra được ý của Ô Di Hà.
“Là vì bộ pháp?”“Phải.” Ô Di Hà lấy chân đạp lên thân cây, nhanh chóng bật cao lên một thân cây đối diện, rồi cứ thể trong chục bước đã leo lên tới ngọn cây cao.
Thêm một chục bước nữa, Ô Di Hà lại tiếp đất nhẹ bẫng.
Kĩ năng di chuyển thượng thừa đó là điều mà không một người phàm nào được chứng kiến trong đời, chứ chưa nói tới việc làm được.
“Bộ pháp bất phàm thì sẽ giữ được mạng.”Hà chỉ mũi đao về phía Thừa Lân mà rằng, “Rút kiếm ra đi, Hoàn đệ.
Ta sẽ cho đệ thấy sự khác biệt giữa ta và đệ.”Thừa Lân cũng rút Không Ngưng Kiếm ra, đứng một góc chùa, thủ thế sẵn sàng.Ô Di Hà lăm lăm thanh đao, tiến về góc đối diện, miệng rằng, “Ta ra một chiêu, đệ ra một chiêu.
Không nhiều lời nữa.” Nói rồi, xông vào lập tức.Thừa Lân chớp mắt đã thấy Ô Di Hà thu hẹp khoảng cách chỉ còn cách vài gang tay, thanh đao phản quang ánh nguyện, ánh sáng lấp lánh.
Chàng vội vàng né tránh đòn tấn của Hà, tung đường kiếm thẳng đứng theo chiêu thức mình vừa học trong sách.Ô Di Hà chỉ di chuyển được hai bước, đường kiếm của Thừa Lân đi vào thinh không.
“Chậm quá,” Hà nói.Hà thúc đốc đao vào lưng Thừa Lân, khiến chàng loạng choạng hai bước.
Thừa Lân xoay mình, vẽ một đường kiếm tuyệt mĩ, nhưng một lần nữa Ô Di Hà đã lùi ra khỏi vòng nguy hiểm.“Chậm quá,” Hà nói, tiến tới