Đôi khi chỉ thuận miệng nhắc tới đồ ăn, sở thích, thậm chí cả thói quen sinh hoạt, anh cũng có thể liên tưởng đến những điều cần chú ý trong khi mang thai.
Nhà phục chế văn vật đang yên đang lành gần như biến thành bách khoa toàn thư về kiến thức mang thai.
Anh còn rất đắc ý, cố ý vô tình nhắc nhở mọi người chuyện mình sắp làm bố.
Mới đầu mọi người còn thật lòng chúc phúc, đến lúc sau, Dụ Dương nhìn thấy anh thì lập tức đi đường vòng.
Nhưng ngặt nỗi Thịnh Kinh Lan có việc hay không có việc cũng gọi tên anh ta: “Dụ Dương, gần đây tôi mới xem xong hai quyển sách, đã ghi nhớ hết nội dung bên trong, giờ để không sách cũng vô dụng, hay là tặng cho cậu nhé?”
Dụ Dương vô thức hỏi: “Sách gì?”
Chợt nghe anh thuần thục đọc thuộc lòng tên sách: “ và .”
Khóe miệng Dụ Dương khẽ giật giật: “Cảm ơn, không cần, tôi không dùng đến.”
Thịnh Kinh Lan làm như lúc này mới sực nhớ ra, tổng kết một câu: “Cũng đúng, cậu vẫn chưa có vợ mà.”
Dụ Dương: “...???”
Trong nhóm chat ba người, Dụ Dương lại cà khịa hành vi vô sỉ của Thịnh Kinh Lan gần đây.
Thịnh Phỉ Phỉ: [Tuy chú út nói chuyện rất ngứa đòn, nhưng em cũng có chút tò mò, anh Dụ Dương, dù gì anh cũng lớn hơn chú em mấy tháng tuổi, không định thoát ế thật à?] Chu Hạ Lâm: [Anh Dụ Dương cũng muốn lắm chứ, mà chị Sa Sở người ta có đồng ý đâu.] Dụ Dương: [....] Anh ta và người nhà họ Thịnh thật sự không có cách nào giao tiếp vui vẻ.
Từ lúc ở quán trà ‘trúng tiếng sét ái tình’ với cô chủ Sa Sở phong tình vạn chủng, Dụ Dương đã bắt đầu theo đuổi như nước ấm nấu ếch*.
Đáng tiếc Sa Sở không tham luyến sự ấm áp, từ đầu đến cuối đều tỉnh táo khiến người ta khó có thể tiếp cận.
(*nước ấm nấu ếch: là câu chuyện ngụ ngôn của Trung Quốc.
Nếu bỏ con ếch vào thẳng nồi nước nóng, nó sẽ nhảy ra.
Nhưng nếu bỏ vào nồi nước lạnh rồi đun lên từ từ, nó sẽ không cảm nhận được nguy hiểm và sẽ bị nấu chín.
Câu chuyện này thường được sử dụng như một ẩn dụ cho việc con người không có khả năng hoặc không sẵn sàng phản ứng hay nhận thức được những mối đe dọa nham hiểm nảy sinh dần dần thay vì đột ngột.) Giai đoạn đầu Dụ Dương vẫn không dám tỏ rõ thái độ, mãi đến sau đó Ôn Từ và Thịnh Kinh Lan hái được quả ngọt, anh ta mới mượn bầu không khí đoàn viên mỹ mãn ngả bài với Sa Sở, kết quả bị từ chối một cách vô tình.
Mấy ngày đó tâm trạng của Dụ Dương không được tốt, nhưng thấy mọi người đắm chìm trong niềm vui sướng, anh ta cũng không nói ra sợ ảnh hưởng tâm trạng của người khác.
Sau đó Ôn Từ biết được tình huống này từ chỗ Sa Sở, bèn nhắc nhở Thịnh Kinh Lan chú ý trạng thái anh em một chút, cũng không biết hai người hàn huyên thế nào mà sau một trận say tỉnh lại giống như không có việc gì, chỉ là Dụ Dương không tới quán trà nữa.
Tháng Mười, sinh nhật Ôn Từ được tổ chức tại nhà tổ nhà họ Ôn.
Từ sau khi kết hôn, hai vợ chồng đến sống trong ngôi nhà sân vườn kiểu Trung Quốc mới, kết quả sinh nhật Ôn Từ lại tổ chức ở nhà họ Ôn, thế nên bạn bè không khỏi trêu chọc Thịnh Kinh Lan: “Ơ, cậu tới cửa ở rể thật đấy à?”
Thịnh Kinh Lan nâng ly rượu lên kính: “Tới cửa là có thể ở rể, chuyện hời như vậy sao tôi không giành làm chứ?”
Kỳ thật nhà hộ Ôn cũng không yêu cầu anh ở rể, nhưng anh vẫn tự xưng như thế, thậm chí còn lấy làm tự hào.
Nguyên nhân tổ chức sinh nhật Ôn Từ ở nhà họ Ôn cũng không phải bởi vì vấn đề gả cưới, chỉ là vì thỏa mãn tâm lý thích náo nhiệt của người già.
Tống Lan Chi năm nay đã bảy mươi tám tuổi, trạng thái tinh thần vẫn còn phơi phới, nói bề ngoài thoạt nhìn trẻ hơn tuổi thật mười tuổi cũng không quá đáng.
Khi dạ tiệc nâng chén chúc mừng, Tống Lan Chi cũng có thể cười cười nói nói với các tiểu bối, không hề thể hiện phẩm giá uy nghiêm.
Ôn Từ mang thai cần chú ý ăn uống, đêm nay không đụng vào rượu, một mình Thịnh Kinh Lan chắn hai phần rượu, bị mời không ít.
May mắn tửu lượng của anh tốt, vẫn có thể duy trì khả năng suy nghĩ và ung dung trò chuyện với mọi người.
Cho đến khi có một cuộc điện thoại đến từ thành phố Cảnh, ánh mắt anh bỗng chốc thay đổi, khẽ cười ứng phó với khách khứa rồi cầm điện thoại di động sang bên cạnh nghe máy.
“Kinh Lan, trở về một chuyến đi.”
Vừa mở miệng đã nói những câu khiến anh lười đáp lại, Thịnh Kinh Lan đang chuẩn bị cúp máy thì nghe thấy giọng nói vội vàng của Nguyễn Cầm từ trong di động truyền đến: “Bà nội con sắp không qua khỏi rồi.”
Ngày Thịnh Kinh Lan và Ôn Từ kết hôn, bà Thịnh đã chứng kiến toàn bộ quá trình thông qua video, sức khỏe cũng bắt đầu khôi phục từ ngày đó.
Tận mắt thấy mọi việc đang phát triển theo hướng tốt, nhưng cũng chưa được một thời gian, cơ thể bà lại bắt đầu suy yếu, ngày qua ngày chỉ có thể nằm trên giường bệnh của bệnh viện, dựa vào dụng cụ và dòng thuốc đều đặn để duy trì sự sống.
Ngay từ đầu, Thịnh Tề Thiên đã muốn mượn chuyện này gọi Thịnh Kinh Lan về, nhưng bà cụ không cho phép, thái độ rất kiên quyết: “Kinh Lan và A Từ vừa mới kết hôn không lâu, công việc cũng bận rộn, đừng để cho hai đứa nó vì chuyện của mẹ mà phân tâm.”
Bà hiểu rõ đứa cháu trai kia, cho dù nhẫn tâm vạch rõ giới hạn với nhà họ Thịnh thì cũng không thể thờ ơ khi nghe thấy bệnh tình của bà nguy kịch.
Sau đó, bà cụ biết được tin tức Ôn Từ mang thai thông qua Thịnh Phỉ Phỉ, trong lòng càng thêm vui mừng.
Nếu sức khỏe bà còn tốt, bà nhất định sẽ tự mình đến thăm Ôn Từ và đứa bé trong bụng của cô kia, nhưng hiện tại, bà thà rằng rời đi trong sự tiếc nuối chứ cũng không muốn để những rắc rối của mình làm phiền hai đứa trẻ.
Cho đến hôm nay, bệnh viện gửi thư thông báo bệnh tình nguy kịch cho người nhà, Nguyễn Cầm biết không thể trì hoãn nữa, nên đã gọi điện thoại cho con trai.
Chuyện này không cần phải giấu diếm, sau khi sinh nhật Ôn Từ kết thúc, Thịnh Kinh Lan đã báo tình huống của bà cụ cho Ôn Từ, Ôn Từ cầm ngược tay anh: “Chúng ta tranh thủ trở về đi.”
Thịnh Kinh Lan gật đầu.
Ngày hôm sau, hai vợ chồng đáp chuyến bay xuống thành phố Cảnh, hai người đi thẳng đến bệnh viện.
Bà cụ bây giờ một ngày ngủ hơn mười mấy tiếng, lúc tỉnh lại liếc nhìn đầu giường còn tưởng rằng mình sinh ra ảo giác.
“Kinh Lan.” Bà cụ run rẩy vươn tay, Thịnh Kinh Lan nắm chặt, trong lòng chấn động.
Anh vẫn còn nhớ bàn tay nắm lấy anh khi còn bé, ấm áp nhu hòa, nhưng theo dòng thời gian trôi qua, bàn tay đó đã héo gầy chỉ còn lại trơ xương.
Bà cụ đã không còn sức lực nói chuyện, trong cơn mê man, lúc nhìn thấy Ôn Từ bà rất muốn nói chuyện với cô.
Ánh mắt bà cụ rơi vào bụng Ôn Từ, quấn lấy ngón tay ý bảo cô đứng xa: “Đừng để A Từ nhiễm bệnh của bà.”
Người thân sắp qua đời, Ôn Từ sao còn để ý những thứ này, cô chủ động đi qua nắm tay bà cụ rồi dán vào bụng mình: “Bà nội, qua năm, sáu tháng nữa là bà có thể nhìn thấy hai đứa nhỏ rồi.”
Trên khuôn mặt đầy nếp nhăn của bà cụ hiện lên nụ cười, để lại lời chúc phúc tốt nhất cho con cháu: “Các cháu sống tốt nhé, rồi tất cả sẽ tốt đẹp.”
Buổi tối hôm đó, lúc y tá đi vào kiểm tra phòng thì phát hiện bà cụ đã qua đời.
Lúc rời đi, bà cụ Thịnh vẫn giữ vẹn một nụ cười, khuôn mặt khoan thai, thường được gọi là hỉ tang.
Nơi tổ chức tang lễ của bà cụ rất tươi đẹp, Thịnh Kinh Lan lấy danh nghĩa con cháu nhà họ Thịnh tham dự toàn bộ quá trình.
Sau khi đám tang kết thúc, Nguyễn Cầm tìm Ôn Từ, hỏi thăm một số chuyện về cuộc sống sau khi kết hôn và quá trình mang thai của cô.
Sau khi mang thai, Ôn Từ càng cảm nhận rõ sự chờ đợi của một người mẹ đối với sinh mệnh, bởi vậy cô càng không nghĩ ra vì sao lúc trước Nguyễn Cầm mặc kệ đứa con mà mình hoài thai chín tháng mười ngày, chỉ biết thiên vị một Thịnh Cảnh Ngôn không có quan hệ huyết thống với mình.
“Mọi người đều nói con cái của mình giáo dục thế nào cũng không sao, huyết thống thân tình không thể dứt bỏ được, nhưng đối đãi với con của người khác thì phải cẩn thận từng li từng tí, bởi vì ở giữa còn một tầng ngăn cách.” Nguyễn Cầm lần đầu tiên thẳng thắn với người khác: “Trước kia mẹ cũng cho là như vậy, thế nên trên rất nhiều chuyện đã lựa chọn thiên vị Thịnh Cảnh Ngôn.
Mẹ luôn cảm thấy Kinh Lan là con ruột của mẹ, có dạy dỗ thế nào thì cũng không sao.”
“Nào biết bởi vì vậy mà thằng bé ngày càng phản nghịch, thường xuyên chọc mẹ tức giận.
Còn Thịnh Cảnh Ngôn thì từ bé đã ngoan ngoãn nghe lời, thế nên mẹ bất giác đặt hai đứa nó lên bàn cân so sánh, thường xuyên nói bên tai Kinh Lan rằng “Sao con không học theo anh trai của con”.
Để bây giờ nghĩ lại mới thấy đúng là mẹ không đủ tư cách làm mẹ.” Khi đó bà sĩ diện, chỉ hy vọng làm tốt vai trò của mẹ kế, lại bởi vì vậy mà xa cách con trai ruột, thật sự cảm thấy hối hận vì đã làm như vậy.
“Khi các con kết hôn, thằng bé không chịu để bố mẹ ngồi ở vị trí thông gia, bố mẹ cũng nhịn, dù sao nhà họ Thịnh cũng có lỗi với thằng bé.
Nhưng đứa bé trong bụng con cũng là giọt máu của nhà họ Thịnh, nếu có thể, hy vọng con để đứa bé nhận ông bà nội.”
Thấy người lớn xuống nước như vậy, Ôn Từ lại không sao chịu nổi, cô hé miệng, cũng không hứa hẹn mà chỉ nói: “Chuyện này con nghe theo anh Kinh Lan ạ.”
Nguyễn Cầm vừa nghe đã hiểu thái độ của cô, cũng không nói nữa.
Bà nhìn bụng Ôn Từ, lộ ra ánh mắt dịu dàng chưa từng có: “Trong bụng con là thai đôi, A Từ, mẹ tin con nhất định sẽ là một người mẹ tốt, sẽ không thiên vị như mẹ.”
Hai chữ cuối cùng lập tức đánh trúng nội tâm Ôn Từ.
Cũng không phải bởi vì mình, mà là bởi vì Thịnh Kinh Lan.
Từ sau khi biết là thai đôi, mọi thứ Thịnh Kinh Lan chuẩn bị đều giống hệt nhau, nam hai phần, nữ hai phần, cộng lại là bốn phần.
Ôn Từ khuyên anh có chừng mực: “Cũng không biết là nam hay nữ, mua sớm không dùng được thì làm sao bây giờ?”
Ông bố tương lai thích đập tiền thích thú nói:
“Dùng không được thì cứ để đó, nhưng anh không thể không chuẩn bị trước được.”’ Chuyện này thì cũng thôi, thế nhưng sau khi mở đồ Ôn Từ lại phát hiện: “Mấy đồ này anh còn mua màu sắc giống nhau như đúc, đến lúc đó làm sao phân biệt?”
Thịnh Kinh Lan đầy lý lẽ nói: “Anh cũng không biết con thích màu sắc gì, nếu hai đứa nhỏ thích cùng một màu, cũng không thể để đứa này có đứa kia không được chứ?”
Ôn Từ chớp chớp mắt: “Lúc mới sinh ra, con cũng đâu thể tự mình lựa chọn...”
Anh không nói huỵch toẹt ra nhưng trong hành động luôn thể hiện sự công bằng, mặc dù phần công bằng này của anh đã vượt qua mức bình thường.
Mùa Đông, bụng Ôn Từ đã hiện rõ, Thịnh Kinh Lan gần đây lại có thêm niềm vui thú mới là đặt tên.
Anh đặc biệt chuẩn bị một quyển sổ đặt tên, trên đó viết tên con trai hoặc con gái.
Sổ đặt ở đầu giường, Ôn Từ tiện tay lật xem, thấy tên trên đó tất cả đều lấy họ “Ôn”.
Cô bỗng nhiên đề xuất: “Nếu hai đứa bé thì lấy một đứa họ Thịnh đi.”
“Họ Thịnh có gì hay đâu.” Anh không có hảo cảm gì với nhà họ Thịnh.
Ôn Từ lấy bút đặt trên cuốn sổ ra, mở một trang giấy mới tinh viết từng nét chữ “Thịnh” xuống rồi đẩy tới trước mặt anh: “Không phải Thịnh của nhà họ Thịnh, là Thịnh trong Thịnh Kinh Lan.”
Ánh mắt người đàn ông thoáng thay đổi: “Các con vẫn chưa ra đời, sao xác định được ai theo họ ai?”
Anh là người thông minh nhưng trong chuyện này lại rất bướng bỉnh, Ôn Từ mượn lời anh hỏi ngược lại: “Vậy các con còn chưa ra đời, sao anh xác định được chúng đều thích theo họ Ôn?”
Thịnh Kinh Lan sờ cằm, nghiêng đầu nhướng mày với cô: “Bé con, em nói có lý.”
“Họ là món quà cha mẹ dành tặng cho con, không liên quan đến việc có thiên vị hay không.” Ôn Từ nâng quyển sổ lên, đưa đến trước mặt anh: “Cho nên chuyện tên họ xin nhờ ông bố tương lai này.”
Kể từ đó, cứ cách vài ngày là cuốn sổ đặt tên của Thịnh Kinh Lan lại dày thêm một trang.
Dụ Dương lại bắt đầu thấy anh phiền: “Cậu ta đặt tên còn phải đi khắp nơi hỏi người khác có dễ nghe không.”
Ôn Từ nghe xong cảm thấy vui vẻ.
Cặp song sinh sinh ra đời vào tháng Tư hoa nở xuân về, là hai bé gái.
Đứa thứ nhất từ nhỏ không hề khóc nháo, tính cách ôn hòa, theo họ mẹ, đặt tên là Ôn Tri Hòa.
Đứa thứ hai từ khi sinh ra đã hiếu động, lại thừa hưởng gien lặn từ bố mẹ, hai bên má có lúm đồng tiền nhỏ, Thịnh Kinh Lan lật ngược một đống tên đã nghĩ ra trước đó, cuối cùng đổi thành Thịnh Điềm Tửu.
Hai chị em sinh đôi này cũng không giống nhau lắm, hơn nữa còn một tĩnh một động, đối lập rõ ràng.
Sau khi đứa bé ra đời, Thịnh Kinh Lan mới ý thức sự ‘công bằng’ mà lúc trước mình cứ để ý ngu ngốc đến mức nào, đồ đạc của hai đứa bé không thể lẫn lộn, phải lấy màu sắc để phân biệt.
Một ông bố bỉm sữa mới vào nghề có vẻ khó khăn hơn trong tưởng tượng, trong nhà cũng có mời chuyên gia chăm con, đôi khi Thịnh Kinh Lan muốn tự mình chăm sóc mấy đứa nhỏ lại luống cuống tay chân.
Có điều so với con cái, Thịnh Kinh Lan dành nhiều thời gian chăm sóc và bầu bạn với Ôn Từ hơn, về điểm này, ngay cả Ôn Như Ngọc cũng nhìn anh bằng vẻ mặt ân cần.
Lúc trước Ôn Như Ngọc sinh con xong bị trầm cảm, sợ con gái bước theo gót mình, hôm nay nhìn thấy Ôn Từ ngày càng vui vẻ hạnh phúc, thân làm mẹ bà ấy cũng tràn đầy vui mừng.
Sự ra đời của hai đứa trẻ đã lấy đi tinh lực của bố mẹ, nhưng cũng không cản trở bước chân