Thiếu niên tên Phạm Thân này là phó Võ úy trẻ tuổi nhất quân Lê. Cậu năm nay chỉ mới mười sáu. Gương mặt điển trai tuy vẫn còn nét non nớt, nhưng cơ thể qua tập luyện đã lộ cơ bắp rắn rỏi. Ngoài ra, Thân còn nổi tiếng trong quân với sức mạnh kinh người, một mình cậu có thể nhất cả khẩu pháo hai trăm cân.Phạm Thân là con thứ ba trong một gia đình thương nhân vùng Hoài Phô. Quê Thân nằm bên dòng sông Thu Bồn, thuộc vùng vịnh Cửa Đại, huyện Hà Đông, phủ Thăng Hoa, trấn Quảng Nam (1).Thân là một tướng sĩ được huấn luyện ra từ xạ trường phủ Thăng Hoa. Kỳ thi tốt nghiệp đầu xuân năm 1552, Thân thi tốt nghiệp đạt hạng nhất, phá luôn kỷ lục môn bắn cung của xạ trường, tài năng đúng là rất nổi trội.Viên quản lĩnh thấy Thân đứng ra xin đi đánh thì trong lòng rất do dự. Phó võ úy nhỏ tuổi này tuy mới vào quân được vài tháng, nhưng từ trước đã có chút tiếng tăm. Trong quân ai cũng từng nghe ít nhiều về thành tích bắn cung “trăm trượng xuyên bốn tấc” của Phạm Thân.Chỉ là viên quản lĩnh lo sợ Thân còn trẻ, từ lúc vào quân đến này vẫn chưa đánh qua trận nào, chẳng có mấy kinh nghiệm chiến trường. Tuy Thân cũng là một dạng thiên tài và có kinh nghiệm vài năm khổ luyện, nhưng trên chiến trường mọi chuyện vô cùng hung hiểm, không từ thủ đoạn. Chẳng may sơ sẩy là quân Lê lại mất đi một nhân tài có thể bồi dưỡng cho mai sau.Thấy quản lĩnh do dự, Thân nói giọng kiên quyết:“Thưa tướng quân, bộ hạ từ ngày theo binh nghiệp đến nay, luôn mong một ngày có thể giết giặc lập công, báo đền nợ nước. Nay Yên Khang hầu giết liền hai võ úy quân ta, đã vô cùng hống hách, khinh địch. Thuộc hạ thấy sự ngạo mạng này cũng là điểm chí mạng của nó!... Chuyện này giờ cấp bách, thằng hầu này mà không hạ ngay đi thì sĩ khí quân ta mất hết, ải này cũng khó giữ! … xin tướng quân cho thuộc hạ ra tiếp chiến!”Quản lĩnh suy tính rồi cuối cùng cũng bằng lòng:“Ngươi cũng là một thiên tài trẻ tuổi, mà đã là trẻ tuổi thì cần phải tôi luyện. Đây sẽ là trận đầu của ngươi!... Nhớ kỹ là phải vô cùng cẩn thận, nếu địch không lại thì liền rút lui về ải!... Được rồi, chuẩn bị đi, người cần gì nữa không?”Mỗi tướng sĩ trong đời đâu có mấy lần cơ hội được đấu một trận tay đôi quan trọng như này. Hạ được một vị hầu gia, quân địch liền tan, ải liền vững vàng. Mà lập được công này cũng đồng nghĩa với quan trường rộng mở, thăng quan tiến chức. Khi bước ra khỏi hàng, trong lòng Thân đã suy nghĩ kỹ đối sách, hạ quyết tâm nắm lấy cơ hội này.Thân đáp:“Thuộc hạ chỉ xin một con ngựa nhanh, càng nhanh càng tốt!”Ngựa chiến ở miền Nam không nhiều nên ngoài kỵ binh thì chỉ có cấp võ úy trở lên mới được cấp ngựa chiến. Những cấp thấp hơn nếu muốn có ngựa cưỡi thì thường phải tự túc. Nhưng hầu hết ngựa chiến hay cả ngựa đua đều đã về tay triều đình, thành ra ngựa tự sắm thường là ngựa thồ, ngựa kéo.Khi ra đi từ quê nhà, người nhà có sắm cho Thân ít trang bị. Anh hai của Thân đã bỏ vàng ra tìm cách mua ngựa chiến cho Thân. Nhưng tìm mãi không mua được ngựa chiến, cuối cùng đành dùng một con ngựa kéo đi cùng Thân.Đợt lũ lụt vừa rồi con ngựa không may đã bệnh chết, nhưng nếu nó không bệnh chết thì lần này Thân vẫn phải xin mượn một con ngựa chạy nhanh. Bởi ngựa kéo thường không nhanh mà tốc độ của ngựa chính là mấu chốt sống còn của trận này.Khổ nổi họa vô đơn chí, con ngựa nhanh nhất ải lại chính là con ngựa của Châu Văn Kha vừa mới tử trận. Hiện nó cùng xác Kha đã bị quân Mạc bắt. Viên quản lĩnh quyết định cho Thân mượn tuấn mã của ông, nhưng Thân từ chối. Ngựa của quản lĩnh là ngựa chiến thuần chủng, rất hung bạo uyển chuyển, nhưng chạy thì vẫn chưa đủ nhanh.Lúc này người chưởng đội kỵ binh liền nhớ ra, trong chuồng vẫn còn một con ngựa chạy rất nhanh. Nó là một con ngựa trắng, bốn chân đen. Trên đầu nó có một vệt đen hình thoi. Con ngựa này chạy thì nhanh, nhưng nếu tiến vào đánh giáp lá cà thì chỉ trong khoảng năm chiêu nó sẽ hoảng sợ, chạy loạn. Vì lý do này nên nó không được đội kỵ binh tin dùng.Nghe xong, Thân chọn ngay con ngựa này. Sau khi xem đường đao của Yên Khang hầu, Thân cũng không tự tin cận chiến với hắn. Trận này theo đối sách của Thân thì chỉ cần chạy nhanh.Xong xuôi, quản lĩnh lệnh ban rượu. Thân nhận lấy cái chén gốm đựng thứ rượu trắng hảo hạng, thơm lựng mùi lúa nếp non. Cậu một hơi uống sạch, rồi dắt ngựa ra cửa ải. Thân dừng lại chỉnh đốn áo giáp, vũ khí.Ngày nhậm chức, triều đình ban cho Thân một chiếc mũ trụ và bộ áo giáp cộc tay. Bên ngoài giáp may vảy sắt, bên trong độn vải. Nếu đem ra so sánh thì quân Lê trang bị kém hơn quân Mạc. Tuy áo giáp kém chất lượng, nhưng giáp vai của Thân lại là loại giáp tấm vô cùng tốt, nhìn vào chẳng ăn nhập gì với áo.Thật ra bộ giáp vai này là vật trên một bộ giáp cấm quân. Năm Hồng Thuận cuối cùng (2), trong cung binh biến, đại thần giết vua, chém giết kinh hoàng. Có một cấm quân trốn thoát, mang gia quyến chạy đến tận cùng đất Quảng. Sau người cấm quân này chết đi, các con ông vẫn luôn thờ bộ giáp như một món gia bảo. Cha và anh hai của Thân đã tìm cách mua lại cả bộ giáp, nhưng người nhà kia nhất quyết bao tiền cũng không bán cả bộ. Cuối cùng cha Thân chỉ có thể mua bộ giáp vai tặng cậu trước khi ra chiến trường. Nhìn hai mảnh giáp vai, Thân bồi hồi nhớ tới gia đình.Sau đó, Thân kiểm tra hai cây cung mình mang theo. Một cây cung gỗ thường dùng trong quân, lực kéo nặng một trăm cân. Còn lại là một cây cung bọc trong vải đen, hãy còn chưa lên dây.Cây cung này, từ ngày vào quân, Thân chưa bao giờ lấy ra dùng. Nghĩ lại thì nó chính là khởi đầu cho cuộc đời võ nghiệp của Thân. Có người nói nó là cung thần, cũng có kẻ nói nó là cung ma.Cây cung bí ẩn này trước đây là một vật thuộc xạ trường phủ Thăng Hoa, nhưng nó với Phạm Thân đã xảy ra chuyện gì thì ta phải quay lại thời gian vài năm về trước.Vào năm Ất Tỵ 1545, Trấn quốc công Bùi Tá Hán phụng mệnh vua Lê Trang Tông (3), dẫn quân đi đường biển xuống phía Nam, lấy lại đất Quảng.Đất Quảng lúc bấy giờ chính là cực Nam của Đại Việt. Nó là giải đất hẹp, nằm ven biển, kéo dài từ Nam Thuận Hóa đến sát dãy Cù Mông ở Hoài Nhơn (4). Bao năm chiến tranh Nam Bắc thì giải đất này là ít bị ảnh hưởng nhất.