Con đường đi chông chênh đầy cỏ dại
Lướt gót hoài chợt thấy một nhành hoa
Tím yêu thương chung thuỷ rất mượt mà
Nhài nhụy lạ noãn nà không tên gọi
Cất bước đi trên đường dài không mỏi
Vượt dặm trường khắc khoải một mùi hương
Phải chăng tâm tạo tác những tơ vương
Kéo ghì chặt những tình thơ ngây dại
Chút tình đây xin ai đừng nghi ngại
Qua đêm dài ắt hiện ánh ban mai
Đêm nay trăng lên sớm, cùng lúc với gió từ mạn sông thổi về mát rượi. Tiết thu làm cho con người cảm giác dễ chịu. Lâm Tố Đình ngồi bên ô cửa sổ trong nhà tiền đường của một ngôi chùa nhỏ nhìn ra bờ sông, lặng im trong bóng đêm. Nàng ngồi ở đó có thể nhìn xuống cả một khúc sông, thấy đêm trăng sông có sóng bạc đầu, bóng trăng lồng trong bóng nước. Nhưng nàng không có tâm trạng nào để ngắm cảnh tượng đẹp não nùng đó. Người ta nói thân gái mười hai bến nước, không biết bến nào trong, bến nào đục, quả tình rất đúng, bây giờ nàng mới thấu hiểu cái thảm cảnh mà hạnh phúc ngỡ như đã nắm chặt trong tay lại tuột mất. Mối tình đầu qua đi để lại cho nàng vết thương lòng đau đớn, trái tim rỉ máu đến nhức nhối.
Nàng ngồi đó rất lâu, chợt có tiếng chân người tiến vô tiền đường, rồi tiếng của một ông lão vang lên:
- Mùa lũ thường hay xảy ra từ tháng sáu cho đến tháng mười ở các vùng Bắc bộ, từ tháng bảy đến tháng mười một ở Bắc Trung bộ, từ tháng chín đến tháng mười hai tại Trung bộ và Nam Trung bộ, từ tháng sáu đến tháng mười một tại Nam bộ. Tiếc là chúng ta xây đê hơi trễ một chút, nếu sớm hơn một tháng có thể ngăn chặn được nạn lũ này rồi.
Một thanh niên thở dài:
- Cháu hy vọng sau trận mưa lớn của tháng trước sẽ chỉ còn lại lũ tiểu mãn.
Một thanh niên khác nói:
- Cháu cũng hy vọng vậy, loại lũ do mưa rào gây nên sẽ không gây tổn hại như những trận cuồng phong lớn.
Ông lão nói:
- Cũng tại đô đốc địa phương không thường xuyên tra xét và xử lý các trường hợp khai thác cát và neo đậu tàu bè trái phép. Lại nữa, từ khi đám dân tóc vàng mắt xanh tới đây, không biết bao nhiêu cây cối bị đốn đi để xây nhà thờ, làm gia tăng tải trọng trên nền đất vốn đã rất yếu này.
Hai thanh niên nói:
- Đúng là nguy cơ sạt lở chính là do sự tổn thất của cây cối mọc dọc bờ và mép Hoàng Hà.
- Các loại cây cối đó vốn có tác dụng trong vấn đề ổn định không để sóng đánh sập bờ.
Khi này Tàu Chánh Khê đặt chân qua cửa nhà tiền đường, chàng nghe ba người đó nói vậy thì nghĩ quả nhiên sau khi đạo Thiên Chúa giáo tràn vào Trung Nguyên, các nhà thờ Tây phương được mọc lên như nấm rạ sau cơn mua, đâu đâu cũng thấy những ngôi nhà thờ khang trang với cửa kính đủ các loại màu sắc, tượng hình chữ thập của cây thánh giá.
Tàu Chánh Khê nghĩ đến những người dân đói rách đang nằm ngủ la liệt trong nhà hậu đường, thoáng cau mày nén tiếng thở dài, lương thực ở trong chùa này sắp sửa cạn kiệt, mà tổng đà ở Hàng Châu chưa thấy chở gạo đến tiếp viện, không biết lá thư của chàng viết đã tới tay thiếu đà chủ hay chưa? Trong lòng Tàu Chánh Khê cảm thấy bế tắc, chàng còn đang suy nghĩ, chợt nghe ông lão hỏi:
- Bây giờ phải làm sao đây thưa ngũ gia?
Tàu Chánh Khê bước đến đứng cạnh ông lão, nói:
- Hiện giờ điều duy nhất có thể làm là tiếp tục đắp đê khoanh vùng, để nước chỉ gây thiệt hại ở vùng nhất định, không cho lan tràn sang những vùng khác. Tới khi hè sang chúng ta sẽ trồng các loại cây thích hợp dọc hai bên bờ Hoàng Hà, bờ bao phía sông, rạch, để bảo vệ mái và mái bờ bao, nhất là các vị trí dễ xảy ra sạt lở. Sau đó cũng nên đo mực nước sông mỗi ngày vài lần để có thể phát hiện tốc độ và diễn biến của mực nước.
Lâm Tố Đình không tham gia vào kế hoạch phòng chống lũ cho những mùa sắp tới. Nàng chỉ ngồi đó nghe Tàu Chánh Khê và những người kia bàn về nguyên tắc để chọn tuyến đê khoanh vùng, về chiều cao thì đê khoanh vùng có diện tích chứa nước lớn phải có chiều cao thấp hơn đê khoanh vùng có diện tích chứa nước nhỏ. Về bề mặt thì đê khoanh vùng thường có mặt cắt khoảng chừng chín thước, mái thượng và hạ lưu bằng nhau, khoảng chừng năm thước. Trước khi đắp đê phải xử lý nền. Khi đắp đất thì phải là đất thịt, không đắp đất cát, bùn, hoặc đất lẫn nhiều cỏ cây, rơm rạ, sỏi đá. Đến lúc có đê rồi thì phải thay phiên nhau quản lý và tu bổ thường xuyên.
Lúc mấy người đó bàn bạc xong và chào Tàu Chánh Khê rồi đi ra nhà hậu đường nghỉ ngơi trăng đã lên và đậu trên đỉnh cây nhạc ngựa, gió bắt đầu thổi lớn nghe như những tiếng hú xa xa vọng về.
Tàu Chánh Khê không đi ra nhà hậu đường, chàng đến sau lưng Lâm Tố Đình.
- Đại muội – Tàu Chánh Khê nói - Đêm đã khuya, muội nên vào nhà hậu đường nghỉ ngơi đi thôi.
Đáp lại câu nói của Tàu Chánh Khê chỉ có Lâm Tố Đình hoàn toàn im lặng, cũng không quay đầu lại nhìn chàng, đương nhiên nàng không đứng lên.
Tàu Chánh Khê thấy vậy bèn bước lên một bước, ngồi xuống cạnh Lâm Tố Đình, chàng cũng làm theo nàng, đưa mắt nhìn Hoàng Hà, đoạn chàng tiếp tục nói với nàng:
- Lúc ban trưa, chỉ là hai tên tép riu, đại muội không cần mạo hiểm vậy đâu.
Lâm Tố Đình chỉ cần Tàu Chánh Khê hỏi nàng vì sao nàng buồn, hoặc tại sao nàng rời khỏi tổng đà Hàng Châu đến Cam Túc này, là nàng có lý do để kể lể về chuyện hôn sự của nàng và Tần Thiên Nhân đã bị Tần Thiên Nhân tự ý đi tìm Cửu Nạn hủy bỏ rồi. Nhưng Tàu Chánh Khê không hỏi gì hết. Lâm Tố Đình cứ ngồi đó và chờ đợi, mấy lần nàng không nén được, định thốt lên nhưng nàng nén lại. Dù sao nàng cũng là con gái, đã là con gái thì không thể nói toạc ra mọi tình cảm của mình với người khác phái nghe. Nàng chỉ âm thầm rơi nước mắt.
Tàu Chánh Khê không nhìn thấy Lâm Tố Đình khóc, chàng ngồi im lặng nhìn mặt sông. Chẳng biết qua thêm bao lâu, có tiếng thút thít truyền sang tai Tàu Chánh Khê, chàng mới quay sang nhìn Lâm Tố Đình. Nhưng Lâm Tố Đình ngồi cúi đầu, chàng chỉ thấy mái tóc đen và dài, rủ sang một bên vai nàng. Tóc Lâm Tố Đình che lấy một bên mặt, xõa lên tà áo tím trông nàng giống như một cánh hoa lưu ly đơn độc mà ngày ngày chàng hay nhìn thấy trôi lênh đênh theo dòng Hoàng Hà.
Một lúc lâu sau nữa, Lâm Tố Đình bưng hai tay lên ôm lấy mặt khóc nức nở.
Tàu Chánh Khê vẫn không nói năng gì, cũng không cả đặt tay lên vai Lâm Tố Đình.
Lâm Tố Đình ước gì Tàu Chánh Khê cũng như Lữ đại thiếu gia, ánh mắt Lữ Nghị Trung chan đầy tình cảm lo lắng quan tâm cho nàng, khi Nghị Trung thấy nàng vẫn đầy vẻ buồn phiền không dứt được, chàng đã cầm lấy tay nàng, siết chặt đôi tay như muốn truyền thêm nghị lực cho nàng.
Lâm Tố Đình nhớ Lữ Nghị Trung đã an ủi nàng bên bờ Tây hồ. “Thôi nín đi,” Nghị Trung đã nói, “muội đến gặp Tàu ngũ gia thực tế một vài tháng ở Cam Túc là mọi chuyện sẽ qua thôi. Quanh muội còn có bao nhiêu người yêu thương. Chỉ là muội luôn chạy đi tìm một điều mơ hồ mà không phát hiện ra rằng bên cạnh muội lúc nào cũng có điều kỳ diệu đã và đang xảy ra. Ngoài kia tối tăm, nhưng trong ngôi chùa ở Cam Túc tia sáng sẽ vỡ òa trên những ngọn nến lung linh thắp quanh ô cửa nhỏ.” Những câu nói và cái siết tay mạnh mẽ của Lữ Nghị Trung lúc đó đã làm lòng nàng ấm áp biết chừng nào.
Một tháng sau, Lâm Tố Đình vẫn còn ở Cam Túc, hằng ngày nàng đều giúp Tàu Chánh Khê và dân chúng đắp đê khoanh vùng. Lâm Tố Đình còn được phân công nấu ăn, chăm sóc đám con nít mồ côi. Nàng làm rất được việc nên được nhiều người yêu mến.
Có một buổi trưa, sau khi cùng các bà thím trong chùa nấu cơm xong, nàng đến bờ đê để gọi Tàu Chánh Khê về ăn, thì thấy một đám con nít đang ngồi quanh Tàu Chánh Khê. Chàng và bọn trẻ ngồi xếp bằng dưới đất cười đùa với nhau. Trong tay Tàu Chánh Khê đang cầm