Mỗi khi dùng sức bên tay thuận, Tôn Hứa Khải thấy lồng ngực đau nhói bèn chuyển thanh kiếm sang tay nghịch đâm bọn quan binh. Nhưng sử kiếm bằng tay nghịch hiển nhiên chiêu thức không còn quen lề lối thông thường nữa nên Thanh binh đỡ được đường gươm của chàng khá dễ dàng. Thế là Tôn Hứa Khải vừa đánh vừa phải lui, thoáng chốc đã bị lính Thanh ép sát vô hàng thông. Bỗng nghe tiếng gió sau lưng, chàng kịp thời nghiêng người tránh né.
Thì ra ở phía sau, một toán lính chẳng biết phục kích từ bao giờ, chỉ chờ có thế lập tức ra tay. Tuy đã tránh được một hai mũi, nhưng nhìn trường thương tua tủa đang đâm tới Tôn Hứa Khải không khỏi ngậm ngùi than thở:
- Rốt cuộc ta cũng phải phơi thây chốn rừng hoang này!
Nhưng trước lúc chết, họ Tôn tính chịu mấy nhát rồi liều chút hơi tàn hòng kéo theo một hai mạng. Đúng lúc Tôn Hứa Khải chấp nhận số phận thì đột nhiên một thứ xoay tít như bánh xe gió vù vù liệng qua khiến bọn lính rú lên, đồng loạt buông trường thương ôm tay đau đớn. Chỉ thấy một người cũng mặc trang phục dạ hành che kín mặt mũi, chân đạp cây nhẹ tựa chim én lao vút tới, ung dung đón lấy vật màu trắng đang xoay một vòng lượn trở lại. Hóa ra là một cây quạt xếp. Dạ hành nhân đáp xuống bên cạnh Tôn Hứa Khải, kêu lên áy náy:
- Xin lỗi tam ca, đệ tới muộn!
Tôn Hứa Khải thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, chàng lắc đầu, vỗ vai đồng bạn, nói bằng giọng cảm khái:
- Không muộn. Dù có chết nhưng được gặp thất đệ lần cuối là huynh mừng lắm rồi!
- Huynh nói vớ vẩn gì thế, từng này chẳng đủ nhét kẽ răng hai huynh đệ chúng mình.
Cả hai cười lên ha hả. Chợt Tôn Hứa Khải nhớ ra, dùng giọng lo lắng hỏi:
- Mọi người bên kia thế nào rồi?
- Không tốt lắm nhưng vẫn cầm cự được. Đệ không yên tâm về huynh nên mở đường máu đuổi theo, may mà vừa tới kịp. Phù!
Tôn Hứa Khải nghe vậy mắt ánh tia hổ thẹn, nói:
- Thất đệ, xin lỗi... huynh...
- Tam ca đừng tự trách, trước mắt phá vòng vây rồi nói - Dạ hành nhân khoát tay.
Tôn Hứa Khải gật đầu. Hai huynh đệ liền áp lưng sát vào nhau cùng tử chiến với quân Thanh. Quân Thanh bao vây họ càng lúc càng đông, tưởng như không thể nào đếm hết được, thực như đàn ruồi bu chén mật. Nhìn đâu cũng không thấy kẽ hở nào để tẩu thoát. Nhưng võ nghệ của dạ hành nhân vừa mới tới đó vô cùng cao cường, lâm nguy vẫn không loạn. Chỉ thấy cây quạt trắng trong tay y thiên biến vạn hóa, bóng quạt đầy trời, trập trùng biến ảo khôn lường, kín kẽ tưởng như không gì có thể chui lọt. Khi xòe ra thì sắc bén tựa đao, lấy mạng người trong chớp mắt. Lúc xếp lại có thể đỡ, gạt, đâm, thậm chí bất thần kẹp lấy lưỡi thương của đối phương rồi xoay người một cái, dùng chính loại thương khí đó phi thẳng tới kẻ đối diện. Thế nên giữa vòng vây mà chẳng khác nào hổ lạc bầy dê, thoáng chốc đã giết được vài chục tên.
Quân Thanh không khỏi hốt hoảng, hàng trước vội vã thoái lùi. Dạ hành nhân thoáng thấy cơ hội liền hú lên một tiếng, người quạt hợp nhất xoay tít như một cơn lốc xoáy xộc thẳng vào hàng ngũ kẻ địch. Người tới đâu, lính Thanh rú lên thảm thiết tới đó, lũ lượt đổ gục như thân chuối gặp phải dao chém.
Phía bên phải vì vậy mà hở ra một lỗ lớn. Tôn Hứa Khải luôn bám sát theo sau, hai huynh đệ lập tức tẩu thoát. Hai người tháo chạy một hồi nhưng vẫn chỉ loanh quanh trong khu rừng thông rất rộng này. Chạy thêm một quãng, Tôn Hứa Khải bị mất quá nhiều máu nên không đi nổi nữa, dạ hành nhân bèn dìu tam sư huynh nấp ở đằng sau một thân cây. Đó là một cây tùng đại thụ rất to, đường kính phải năm người dang tay ra đứng xung quanh cũng chưa chắc ôm trọn được.
Tôn Hứa Khải ngồi xuống tựa lưng vào gốc cây nghỉ ngơi, lấy từ trong ngực áo ra một quả binh lang vén khăn che mặt lên bỏ vào miệng nhai. Sau khi dạ hành nhân quỳ xuống xem xét vết thương của tam sư huynh, nhíu mày nói:
- Phải lập tức rút cây đao mới cầm máu được, huynh chịu đau chút nhé!
- Được, đệ cứ làm đi!
Dạ hành nhân liền cẩn thận rút con dao ghim trong ngực Tôn Hứa Khải ra. Trông vậy mà lưỡi dao cắm khá sâu, khiến họ Tôn phải nghiến răng nhăn mặt. Đắp tạm thuốc cầm máu, giây lát sau Tôn Hứa Khải thở ra một hơi nhẹ nhõm. Nhưng lòng sư đệ nặng trĩu, nhìn máu đen trên lưỡi dao nằm trên đất là biết Tôn Hứa Khải đã trúng độc rồi. Hơn nữa trông gương mặt tam sư huynh xanh xao, đôi môi tím ngắt, hiển nhiên khí lực đang dần suy tàn. Dạ hành nhân khẽ thở dài một hơi.
Trong lòng dạ hành nhân lại nghĩ tới chuyện hôm bữa có biên thư nhờ học trò trao cho nữ thần y khuyên nữ thần y đi Hồi Cương lánh nạn, đừng trở về Hàng Châu nữa. Dạ hành nhân càng nghĩ lại thầm rủa bản thân mình tơi bời, vì dù cho thoát khỏi trùng vây lần này thì khi đưa được tam sư huynh trở về tổng đà Hàng Châu lấy ai mà giải độc được đây? Còn đường đến Hồi Cương thì quá xa xôi.
“Ôi, ông Trời thực khéo trêu người!” Dạ hành nhân ảo não nhủ thầm.
Bấy giờ khí sắc Tôn Hứa Khải càng lúc càng kém, chất độc thực lợi hại, binh lang không giúp gì được. Tôn Hứa Khải thấy tình hình của chàng bất lợi, chàng thở từng hơi nặng nhọc, nhìn sư đệ nói:
- Thất đệ à, huynh không ổn rồi. Đệ cứ đi đi, bỏ mặc tam ca, chạy trước đi!
- Tam ca, huynh coi đệ là hạng người gì chứ? Nếu đi thì cùng đi, còn không chúng ta cùng liều chết! - Dạ hành nhân nói cứng.
Tôn Hứa Khải muốn đấm lên thân cây một cái thật mạnh để trút cơn phẫn hận, nhưng không còn sức lực chỉ có thể thốt:
- Chỉ vì ca vô dụng, còn làm liên lụy đệ!
Dạ hành nhân đang định an ủi tam sư huynh vài câu, đúng lúc đó có tiếng chân người rầm rập từ đằng xa vọng đến. Dạ hành nhân nấp đằng sau thân cây ló đầu ra nhìn, liền thấy một đội quân thiếc giáp đông đảo hùng hậu đang ùn ùn kéo tới. Dẫn đầu lại có một người tuổi tác không quá hăm lăm thân khoác giáp bạc, gương mặt xương xẩu thiếu biểu cảm, hai mắt sâu hun hút như hai cái hố tăm tối, tay cầm một thanh trảm mã đao, mũi đao chênh chếch hướng xuống đất, toát ra sát khí lạnh người. Sau vài nhịp thở, cả quân lẫn tướng chỉ còn cách chỗ hai huynh đệ ẩn nấp khoảng chừng vài chục bước chân. Nhưng gã tướng quân đó bỗng giơ tay làm hiệu, toàn quân lập tức dừng lại, hàng ngũ tề chỉnh không chút xao động.
"Kẻ này không tầm thường!" Dạ hành nhân lẩm bẩm, tâm trạng càng thêm trầm trọng. Gã không ngại quần chiến nhưng một đội quân kỷ luật có sự chỉ huy của tướng tài rõ ràng khó chơi hơn đám quân ô hợp lúc nãy rất nhiều.
Quả vậy, dạ hành nhân nhận xét không sai. Vì người mặc giáp bạc đó tên Trương Dũng, là kẻ khá có danh tiếng trong hàng ngũ tướng lĩnh kinh thành. Hiện họ Trương đang giữ chức phó soái Mai Lặc Chương Kinh, trực thuộc chủ soái Chính Bạch kỳ Định Viễn đại tướng quân.
Mà nhắc đến Định Viễn đại tướng quân cũng phải nói qua một chút. Lúc này triều đình Mãn Thanh vẫn khá coi trọng quân công, cho nên đệ nhất dũng sĩ Mãn Châu Ngao Bái, người có danh vọng rất cao trong đám tướng lĩnh mới xếp đầu trong tứ mệnh đại thần. Ngao Bái bất mãn với một việc làm của tiên đế nên khi tiểu hoàng đế Khang Hi lên ngôi, tìm cách hạ bệ, trong tay Ngao Bái nắm Ngũ kỳ nên dẫn đến không ít kẻ a dua hùa theo, đối với tân hoàng bằng mặt mà không bằng lòng.
Dưới áp lực ấy, còn may Khang Hi vẫn được một số người trung thành như cha con Sách Ni, Sách Ngạch Đồ hay Mã Tề hết lòng phò tá. Song đáng kể nhất phải kể đến sự ủng hộ của vị Định Viễn đại tướng quân này. Tuy còn khá trẻ nhưng Định Viễn đại tướng quân nổi tiếng văn võ song toàn tài năng trác tuyệt, bắt đầu cầm quân đã lập vô số chiến công, là người duy nhất có thể đối trọng với Ngao Bái trong quân đội. Và Trương Dũng cũng chính là một trong năm “ngũ hổ tướng” đắc lực của Định Viễn đại tướng quân.
Lần này Trương Dũng mang quân đến Sơn Tây là theo kế hoạch của thượng cấp. Ngay khi nhận được phi điểu báo tin Khang Hi sẽ đi Sơn Tây, Định Viễn đại tướng quân đang trấn giữ đường biên giới Trung - Nga đoán sẽ có đám người giang hồ tự xưng Giang Nam Thất Hiệp, một đám dư nghiệt tiền triều tìm đến hành thích, bèn lệnh cho Trương Dũng ngày đêm dẫn một số quân thiếc giáp từ biên giới Trung - Nga về Sơn Tây.
Đường về Sơn Tây rất xa, lại bị một số sát thủ gọi là Huyết Trích Tử do Ngao Bái đào tạo cản trở ở Thịnh Kinh nên Trương Dũng tới chậm một chút, may là Mã Tề bế Khang Hi chạy khỏi rừng thông.
Ngoài nhiệm vụ đem binh tới cứu viện cho Khang Hi ra, Trương Dũng còn có thêm một nhiệm vụ khác nữa.
Trương Dũng đứng trong rừng thông nhớ lại nhiệm vụ quan trọng thứ hai được giao phó. Định Viễn đại tướng quân đã nói: “Chuyến đi này, e là làm khó Trương phó tướng rồi. Bảy người đương gia của Thiên Địa hội không phải là bọn võ phu giang hồ, vì nếu chỉ là một đám thất phu, võ công có cao cường đến mấy cũng chẳng thể bằng sức vài người chống lại thiên quân vạn mã. Bảy người này rất có đảm lượng. Trong nhóm có một kẻ càng tuyệt đối không thể coi thường. So với võ công, tài trí của hắn thập phần lợi hại. Mấy vụ tập kích quan quân triều đình ở Giang Nam đều do bàn tay kẻ này vận trù sắp xếp kế hoạch. Không những thế, hắn thông thuộc nhiều nơi, quen biết rộng, nên còn giữ nhiệm vụ liên lạc bốn phương và thám thính tin tức. Thực xứng danh là kẻ đa mưu túc trí, ứng biến linh hoạt.”
Trương Dũng nhớ mình đã trả lời: “Định Viễn đại tướng quân, nói vậy đây là một nhân vật quan trọng rồi.” Định Viễn đại tướng quân gật: “Đúng vậy. Nếu chiêu mộ được kẻ này, nói không ngoa rằng đó là người thích hợp để giúp hoàng thượng bày mưu lập kế tiêu trừ đám gian thần tặc tử, củng cố vững chắc ngai vàng, kiến lập đại nghiệp thiên thu vạn đại.”
“Định Viễn đại tướng quân ngài đề cao hắn quá chăng?” Trương Dũng nhớ chàng có phần không phục hỏi: “Dẫu sao cũng chỉ là kẻ giang hồ thảo mãng thôi. Mạc tướng thấy có ngài phò tá hoàng thượng là đủ lắm rồi.”
Định Viễn đại tướng quân lắc đầu: “Trương phó tướng chớ khinh thường người trong chốn dân gian. Chẳng phải trước lúc Gia Cát Lượng vang danh thiên hạ cũng chỉ là kẻ làm ruộng ở Long Trung đó sao? Luận hành quân đánh trận, chúng ta có kinh nghiệm nhưng không lâu bằng Ngao Bái cho nên về âm mưu quỷ kế chúng ta nhất định phải chiêu mộ cho được người này.”
“Sao hắn có thể sánh với Khổng Minh chứ?” Trương Dũng nhớ chàng vẫn còn chưa phục nói. Định Viễn đại tướng quân đặt tay lên vai chàng bảo với chàng rằng giang hồ ca tụng và đặt cho người này cái danh hiệu Gia Cát Tái Lai, rồi bàn với chàng những câu nói để thuyết phục khuyên răn Gia Cát Tái Lai trở giáo quy hàng triều Thanh, phò trợ đương kim hoàng thượng tiêu trừ đại gian thần Ngao Bái. Một nhiệm vụ vô cùng khó khăn nhưng nếu làm được, Định Viễn đại tướng quân nói, Trương Dũng chàng đã ghi đại công rồi!
Bởi vậy khi Trương Dũng vừa mang quân tới bìa rừng, chàng đứng từ xa nhìn thấy binh khí của một kẻ trong bọn liền nhớ tới lời mô tả của Định Viễn đại tướng quân: "Kẻ này hay dùng một chiếc quạt trắng làm binh khí, nan quạt bằng sắt, khi đánh phát ra tiếng leng keng chói tai khiến đối phương nhiễu loạn tâm thần." Trương Dũng liền biết đó là mục tiêu Định Viễn đại tướng quân tìm kiếm. Trương Dũng không chút chần chờ, lập tức xua quân ào vào rừng.
- Xin hỏi Cửu Dương tiên sinh, thất đương gia của Thiên Địa hội có ở đó hay chăng? - Trương Dũng hắng giọng nói to.
Dạ hành nhân nghe vậy thầm ngạc nhiên, song vẫn đứng lên, ung dung bước ra đáp:
- Có thì thế nào?
- Nghe danh tiên sinh đã lâu!
Thì ra dạ hành nhân này chính là Cửu Dương, đứng hàng thứ bảy trong Giang Nam Thất Hiệp. Song chàng ta không chào hỏi cũng chẳng vòng tay đáp lễ Trương Dũng, chỉ dửng dưng nhìn họ Trương.
Trương Dũng đã chắp tay chào hỏi song nhận lại chỉ là vẻ thờ ơ lạnh nhạt từ Cửu Dương, Trương Dũng không vì thế mà tức giận, lại hỏi:
- Tiên sinh thấy binh sĩ của ta thế nào?
"Tên này định giở trò chi đây?" Cửu Dương thầm lấy làm lạ nhưng ánh mắt chàng chẳng thèm ngó lấy một cái, đáp gọn lỏn:
- Tinh nhuệ thiện chiến, kỷ luật nghiêm minh lắm!
Trương Dũng được đối phương khen ngợi, không khỏi tự đắc gật gù:
- Ta từng nghe người giang hồ ca tụng cây quạt trong tay thất đương gia rất lợi hại. Vừa nãy đã được chứng kiến, quả nhiên danh bất hư truyền...
Đột nhiên Trương Dũng cao giọng:
- Vậy tiên sinh nắm chắc mấy phần phá được vòng vây của bọn ta?
- Không đến nửa phần! - Cửu Dương thản nhiên đáp.
Trương Dũng bật cười, dùng giọng mỉa mai nói:
- Hừ, e là tiên sinh quá tự mãn rồi. Ta thấy một chút hy vọng cũng chẳng có đâu!
- Vậy thì thế nào? - Cửu Dương dùng giọng tỉnh bơ hỏi.
- Thì Trương Dũng ta khẳng định hôm nay sẽ là ngày giỗ của tiên sinh đó!
Trương Dũng im lặng vài giây như để đối phương có thời gian cân nhắc, dịu giọng nói tiếp:
- Có điều nếu theo chúng tôi về kinh thành, thì không những tính mạng tiên sinh được bảo toàn mà...
- Ha ha! Vị tướng quân này, ngươi coi ta là trẻ lên ba chắc? – Cửu Dương chẳng chờ đối phương dứt lời ngon ngọt, cười lớn cắt ngang.
Trương Dũng nhíu mày tắt tiếng, trong lòng không khỏi bực bội, hóa ra nãy giờ mình đã phí lời. Song rất nhanh trấn tĩnh lại, Trương Dũng nhẩm lại một lượt sách lược của Định Viễn đại tướng quân, rằng: “Trước nên khích bác, sau nói lời ngon ngọt. Nếu không thuyết phục được y thì hãy ra tay bắt sống, nhất định không được để thoát…”
Trương Dũng ngẫm nghĩ lựa lời một chốc xong, lắc đầu thở dài:
- Đáng tiếc, đáng tiếc, thật là đáng tiếc…
Lúc này Cửu Dương đã mơ hồ nhìn ra dụng ý của đối phương rồi. Nhưng phần vì để khẳng định phán đoán này, phần khác muốn kéo dài thời gian giúp Tôn Hứa Khải phục hồi phần nào sức lực, chàng ta bèn nhàn nhã hỏi:
- Đáng tiếc cái gì?
- Là bản tướng tiếc cho tiên sinh, một người lòng mang chí lớn, tâm hoài đại nghiệp không đi làm việc đại chí đại nghĩa lại hòa cùng đám thất phu tặc tử làm điều phản nghịch!
Trương Dũng không để đối phương kịp đáp trả, vội bồi thêm:
- Hơn nữa một thân nam nhi đại trượng phu hùng tài vĩ lược lại đi bám váy phò trợ mụ già!
- Ha ha ha!
Tuy bị chửi bới khích bác Cửu Dương vẫn cười lớn, thầm nghĩ: "Rốt cuộc đã lòi ra bản chất của kẻ mãng phu!" Đoạn thong thả đáp trả:
- Từ xưa tới nay, phàm là người hiểu biết tất sẽ tìm tới người có tài, đức, trí, dũng, tự nguyện dốc hết lòng phò tá người đó trở thành minh chủ, không kể đấng minh chủ ấy là nam hay nữ, chỉ cần có thể giúp bá tánh no cơm ấm áo. Hơn nữa tổng đà chủ Thiên Địa hội là tiền triều công chúa, hoàn toàn xứng đáng để những nam nhi đại trượng phu hùng tài vĩ lược xả thân phò trợ lên ngôi cửu ngũ cao quý. Còn hoàng đế Mãn Châu các người vốn đời đời ở nơi quan ngoại, đem quân xâm chiếm đất đai Trung Nguyên. Cứ cho là qui luật tự nhiên triều đại này suy ắt có triều khác thay thế nhưng nếu là một đấng minh quân, việc đầu tiên nên làm là lấy đức thu phục chúng sinh. Hai đời vua Mãn Châu các người lại uy hiếp bá tánh, dùng máu và đầu người xây dựng nền móng!
Trương Dũng biết Cửu Dương đang ám chỉ chuyện triều đình bắt người Trung Nguyên để tóc đuôi sam, song không tiện tranh luận việc này, bèn theo lời dặn của tướng quân, cười khẩy nói lảng đi:
- Lòng dạ mềm yếu sao có thể làm chuyện đại sự. Năm xưa, Đường Cao Tổ khởi sự ở Thái Nguyên, trước tình thế triều Tùy tan rã đã do dự bất quyết, may mà có con trai thứ hai của Đường Cao Tổ là Lý Thế Dân năm lần bảy lượt khuyến khích, Đường Cao Tổ tiến hành nổi dậy, buộc Tùy Cung Đế phải nhường ngôi, khoác lên vai áo vàng lập ra triều Đường. Và cũng chính Đường Thái Tông là người không e sợ miệng lưỡi thế gian, đã dám xách động chính biến Huyền Vũ Môn. Nếu không có sự kiện tranh giành quyền lực diễn ra vào ngày 2 tháng 7 năm 626 thì đâu có một Đại Đường thịnh thế độc nhất vô nhị trên thế giới thời bấy giờ!
Trương Dũng thấy Cửu Dương ngẩn người câm lặng, nghĩ đối phương đã thông suốt, hăng hái nói văng bọt mép:
- Vì mưu đồ đại sự cho nên hai vị ấy mới phải làm chuyện bất đắc dĩ. Nhưng sau khi lên làm quân chủ, họ đều là bậc minh quân, lấy đức trị chúng sinh. Xin hỏi Cửu Dương tiên sinh hậu thế sau này có ai mà không kính ngưỡng họ? Sau khi hoàng đế Đại Thanh thống nhất Mãn, Hán, Hồi, Mông, Tạng cũng sẽ dùng đức trị vì như họ!
Trương Dũng cứ thao thao bất tuyệt mà không biết rằng ngoài những buổi Cửu Dương cùng Giác Viễn đại sư luyện tập võ nghệ sau chùa Thiếu Lâm, chàng ta còn theo Mã Lương phu tử dùi mài kinh sử, ôn luyện văn thơ. Mã Lương vốn là một thầy giáo dạy học ở các trường học miền Nam. Sau này mới cùng một số bạn bè đứng ra tự mở trường dạy miễn phí cho đám trẻ nghèo khó nhưng ham học, đặt tên là Hắc Viện. Trong trường có rất nhiều học sinh nhưng Cửu Dương chính là học trò tâm đắc nhất của phu tử, thậm chí được phu tử yêu mến nhận làm nghĩa tử. Mã Lương là viện trưởng đầu tiên của Hắc Viện. Sau khi ông mất thì Cửu Dương trở thành viện trưởng đời hai của trường học này.
Cho nên trái với những gì Trương Dũng lầm tưởng, một người thuộc làu kinh sử như Cửu Dương khi nghe Trương Dũng múa may mồm mép chỉ cảm thấy buồn cười, nhủ bụng không ngờ tên võ tướng trông thô lỗ này lại chịu khó học thuộc sử Đường đến thế.
Bất quá chàng ta chẳng buồn tranh cãi, chỉ nói cứng như đinh đóng cột:
- Nay bọn ta lọt vào tay các người, muốn chém muốn giết cứ việc tùy ý, cần chi nói nhiều!
Trương Dũng không khỏi thất vọng, song chưa chịu từ bỏ nhiệm vụ khuyên địch quy hàng, tiếp tục tặc lưỡi nói:
- Tiên sinh ơi hỡi tiên sinh, với tài nghệ và kiến thức của ngài quan trường mới là nơi để ngài dung thân, phát triển sự nghiệp tạo phúc cho muôn dân. Chuyện này đối với Cửu Dương ngài và trăm họ bá tánh mà nói đều lợi cả đôi đường. Không phải hay sao? Hoàng thượng thánh minh, sau này nhất định sẽ không bạc đãi ngài. Hà cớ gì cứ ngoan cố không chịu nghe? Sao hả? Ta nói như vậy, ngài nghĩ thế nào?
Cửu Dương bỗng lấy làm lạ, chỉ bằng mấy lời tầm thường thế này mà đòi thuyết phục chàng quy hàng thì kẻ địch quá ngây thơ rồi. Nhưng cớ sao gã này cứ nhì nhèo mãi không buông? Cho nên chàng liền tập trung suy nghĩ, thầm phán đoán về dụng ý thật sự của đối phương. Bất giác quay sang bắt gặp tam ca liếc nhìn mình, ánh mắt là lạ như thấp thoáng nỗi băn khoăn, Cửu Dương giật mình bừng tỉnh.
Thử nghĩ mà xem, Giang Nam Thất Hiệp bọn họ, trong khi sáu người bị coi là phản tặc cần phải tru diệt, riêng mình chàng lại được đối xử đặc biệt, trước đích danh gọi ra nói chuyện, sau lấy lễ đối đãi rồi dùng lời thiết tha khuyên bảo. Chuyện này nếu truyền ra thì dù có chạy thoát được hôm nay cũng không tránh khỏi người trong hội xì xào bàn tán. Đến lúc đó dẫu bảy người tình như thủ túc nhưng ai dám chắc qua sự kiện này quan hệ giữa chàng và cả bọn không có vết gợn. Quả nhiên chia rẽ ly gián mới là dụng ý sâu xa của kẻ địch.
Cửu Dương cười khổ, bèn nói nhỏ:
- Tam ca, cẩn thận kế ly gián!
Nhưng ngẫm lại, một kẻ nom lỗ mãng như tên họ Trương này khó có khả năng dùng tâm kế. Vậy hẳn là do cao nhân nào đó đứng sau bày ra rồi. Thế là Cửu Dương càng thêm cảnh giác.
Về phần Trương Dũng, nói hết nước hết cái song đối phương chỉ một mực im lặng, y bực tức kêu:
- Ngài không nghe theo lời ta khuyên, mai này thiên hạ phỉ nhổ đừng hối hận. Sao một kẻ có tài năng, tự cho mình là hiểu biết lễ nghĩa lại đi làm chuyện hành thích hoàng đế, làm việc đại nghịch bất đạo, thiên tru địa diệt như vậy chứ?
Tôn Hứa Khải được sư đệ nhắc nhở, bấy giờ mới vỡ lẽ, lòng có chút ngượng ngùng. Tai lại nghe tên giặc khốn kiếp chửi sư đệ như vậy, máu nóng dồn thẳng lên đỉnh đầu. Lửa giận nổi phừng phừng, Tôn Hứa Khải thò đầu ra khỏi thân cây lớn tiếng mắng:
- Mẹ kiếp, con bà tám đời tổ tông nhà tụi bây, nhất là cái tên cẩu quan kia, nói mà không biết ngượng ư? Bọn ta còn chưa chửi nhà ngươi bất trung bất nghĩa? Còn dám nói sư đệ ta khụ khụ…
Vì vận sức lấy hơi đột ngột động tới vết thương nơi ngực thành ra chưa hết câu Tôn Hứa Khải đã ho sặc sụa. Cửu Dương đặt tay lên vai Tôn Hứa Khải ý như muốn bảo tam sư huynh bình tĩnh lại, sau đó nghiêm mặt đáp:
- Tên võ quan vô lại kia, ta nghe giọng nói của ngươi, rõ ràng cũng xuất thân người Hán, cớ sao lại đi phò trợ đám người dị tộc? Ngươi nghĩ ngươi như vậy, là anh hùng, là hảo hán hay sao? Giang sơn gấm vóc người Hán chúng ta hôm nay lọt vào tay lũ mọi rợ Mãn Châu, để chúng tự ý phân chia, cai trị bằng đòn roi hà khắc. Hằng ngày đâu đâu cũng có chuyện bất bình, ngươi có thể nhắm mắt làm ngơ hay sao?
Trương Dũng trợn mắt chưa biết đối đáp thế nào, Cửu Dương lại nói tiếp:
- Ta nghĩ thay vì nhận giặc làm cha trợ Trụ vi ngược, bị người sau ngàn đời nguyền rủa. Bây giờ còn chưa muộn đâu, hãy quay giáo theo ta phò trợ tổng đà chủ, đưa người trở thành một Võ hoàng đế thứ hai, một quân chủ nhân nghĩa trị quốc anh minh, giúp người Hán đem đám người Mãn đuổi ra quan ngoại…
Cửu Dương nói chưa xong nhưng Trương Dũng chẳng muốn nghe tiếp nữa, thầm nghĩ tên này ngoan cố không chịu quy hàng rồi, Trương Dũng bèn lên tiếng cắt lời Cửu Dương, cách xưng hô với Cửu Dương cũng thay đổi đi:
- Chim khôn biết lựa cành lành mà đậu, kẻ biết thời cơ mới là trang tuấn kiệt. Chẳng lẽ ngươi chưa nghe qua câu đó à?
Xem chừng cũng quá ngán ngẩm rồi, Trương Dũng cáu tiết xua tay nói tiếp:
- Mà thôi đi! Bản tướng chẳng thèm nhiều lời với nhà ngươi nữa. Bây giờ ta đếm ba tiếng, nếu như ngươi còn không chịu vác mặt ra quy hàng thì chỉ có con đường... chết!
Dứt lời bèn hô to:
- Một!
Đoạn Trương Dũng giơ tay làm hiệu, đoàn quân thiếc giáp phía sau đồng thanh thét lớn:
- Haiii!!!
Cửu Dương trầm mặc nhìn Tôn Hứa Khải rồi ngoảnh đầu về phía ngôi chùa Quan Âm. Chàng ta nghe văng vẳng trong gió tiếng hò reo chém giết dữ dội, tiếng vũ khí chạm nhau loảng xoảng xen lẫn tiếng súng đạn nổ đùng đùng. Quân Thanh đã dùng tới thứ vũ khí lợi hại này, chỉ sợ tổng đà chủ và mấy vị đương gia kia lành ít dữ nhiều rồi.
- Đằng nào huynh cũng khó thoát kiếp nạn này, để huynh cầm chân bọn chúng, đệ mau chạy đi! - Tôn Hứa Khải giục.
Nhưng Cửu Dương chỉ lắc đầu bởi chàng đã có quyết định của riêng mình. Cửu Dương quay sang Tôn Hứa Khải, giọng nhẹ tênh như chẳng để ý sinh tử đang kề bên:
- Tam ca, còn nhớ lúc bảy người huynh đệ chúng ta cắt máu ăn thề có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu không? Phúc thì chưa thấy song ít nhất cũng được như tâm nguyện, chúng ta không sinh cùng năm nhưng lại được chết cùng ngày cùng tháng!
Tôn Hứa Khải nghe vậy không khỏi nghẹn ngào, bao lời khuyên nhủ định thốt ra lại nuốt ngược trở lại. Thất đệ đã quyết ý như vậy y còn biết nói gì đây. Trong lòng Tôn Hứa Khải cảm động vô cùng, đặt tay lên vai sư đệ, siết thật chặt:
- Thất đệ, nếu có kiếp sau chúng ta lại là huynh đệ tốt!
Hai người thoải mái hàn huyên chẳng cần biết bọn quân thiếc giáp đã hô đến tiếng thứ ba. Dứt ba tiếng mà không thấy Cửu Dương vác mặt ra hàng, Trương Dũng bực mình xẵng giọng:
- Đúng là thân lừa ưa nặng, nói nhẹ không nghe cứ thích phải nặng tay!
Đoạn y vung cây trảm mã đao chém vào không khí, quát lớn:
- Lên!
Chỉ chờ có vậy, đoàn quân thiếc giáp hò hét xông lên như sóng vỡ bờ, ùa tới vây lấy hai người. Do bọn chúng ai cũng trang bị giáp bọc sắt nên hai huynh đệ vô cùng chật vật, chỉ còn biết vừa đánh vừa lùi. Hơn nữa thương thế trong mình Tôn Hứa Khải không nhẹ, chống trả một hồi cũng đành vùng vẫy trong tuyệt vọng. Trước khi Tôn Hứa Khải gục xuống, định vung kiếm tự sát còn hơn chết nhục trong tay Thanh binh thì Cửu Dương đã cản lại:
- Tam ca! Chưa đến đường cùng, tội gì phải thế!
Dứt lời Cửu Dương quát lên một tiếng, mượn lực từ thân cây kế bên, xoay người thi triển liên hoàn cước khiến hai ba tên lính trước mặt ngã dúi dụi vào đồng bọn phía sau. Tranh thủ lúc đội hình đối phương rối loạn, Cửu Dương lập tức dìu Tôn Hứa Khải xoay người bỏ chạy.
- Còn muốn trốn sao? Đuổi theo cho ta!
Trương Dũng liền ra lệnh.
Một binh sĩ nghe Trương Dũng hạ lệnh liền cảm giác lạnh buốt như có một lớp băng nằm ngay trên đỉnh đầu hắn, cơn lạnh chạy dọc từ đằng sau cổ men theo sống lưng hắn, chạy một mạch dài xuống tận gót chân làm cho da gà nổi đầy hai cánh tay. Tên lính bước lên thưa:
- Bẩm Trương phó tướng.
- Chuyện gì?
- Nhìn hướng bọn chúng chạy, thuộc hạ e là...
Trương Dũng thấy tên này ấp a ấp úng, không khỏi bực mình gắt:
- Làm sao cứ lúng búng như trẻ con tập nói thế!?
- Dạ, hướng bọn chúng tẩu thoát đó là tới hẻm núi Đá Ma!
- Hẻm Đá Ma! Đó là cái gì?
Trương Dũng nhíu mày.
- Nghe nói nơi đó không ít thợ săn khi đuổi theo con mồi vô tình chạy vào bỗng dưng biến mất tăm tích. Một số người gan dạ đi vào tìm kiếm cũng cùng chung số phận. Kẻ may mắn sống sót trở ra được thì điên điên khùng khùng, sống dở chết dở, lay lắt thêm mấy ngày cũng chết. Đặc biệt khi gặng hỏi chuyện xảy ra trong khe núi họ tỏ ra vô cùng hoảng loạn. Từ đó dân địa phương sợ hãi chẳng dám bén mảng lại gần.
Trương Dũng nhăn mặt, trầm giọng hừ lạnh:
- Giả thần giả quỷ, hồ đồ nhảm nhí!
Một tên lính khác nói:
- Thuộc hạ có bà con ở Sơn Tây, họ nói đó là một khu phế tích bỏ hoang, tứ bề núi đá bao quanh. Trên mặt đất rải rác rất nhiều hố sâu như lỗ giếng không rõ để làm gì, bà con thuộc hạ nói nhiều khả năng đám thợ săn do bất cẩn rơi xuống đó. Có điều...
- Có điều thế nào? - Trương Dũng sốt ruột quát.
Tên lính ấp úng:
- Dạ... Thuộc hạ nhớ có năm đến Sơn Tây thăm người bà con này đã vào rừng này chơi, thuộc hạ cảm nhận, đúng là trong hẻm đó có điều gì đó rất bất thường, ngột ngạt khó thở cứ như... cứ như, như ai đó đè lên ngực vậy.
- Hừ, nói linh tinh. Trương Dũng ta trước nay chỉ tin thanh đao trong tay mình, há lại đi sợ chuyện ma quỷ vớ vẩn này!
Trương Dũng nạt nộ thủ hạ, đoạn hô lớn:
- Truyền lệnh bản tướng tất cả lên hết truy bắt phản tặc cho ta, sống thấy người chết phải thấy xác. Kẻ nào còn nói năng xằng bậy làm dao động lòng quân liền