Múa bút nghiêng vai họa mấy dòng
Nắn na nắn nót một đường cong
Xướng trăng chói rọi nhành lan tím
Lập lòe bướm lượn thế là xong
Một ông lão râu tóc bạc trắng đang đứng xuôi tay trong sân sau của Hắc Viện học xá. Ông nhìn chăm chăm hai cánh cửa đang đóng im ỉm, thi thoảng buông tiếng thở dài thườn thượt. Mình ông vận trường bào kép Định Thanh, bên ngoài khoác một áo ngắn cộc tay màu nâu, ở lưng phấp phới một dải dây lưng nâu.
Nhạc Tam Nguyên đi tới đi lui trên hành lang phía bên phải cánh cửa, hai tay đấm vào nhau vẻ nôn nóng.
- Đã mấy ngày rồi, sao chẳng có chút tin tức là sao?
Nhạc Tam Nguyên liên tục lẩm bẩm.
Chừng như cũng sốt ruột, ông lão quay qua Nhạc Tam Nguyên cằn nhằn:
- Tam Nguyên à, cháu đứng yên một chút có được không? Ông chóng hết cả mặt rồi đây!
- Nhưng mà cháu... - Nhạc Tam Nguyên chưa nói hết câu, buồn bực đấm mạnh một cái vào tường.
- Ông biết chứ! Ông cũng đang cồn cào hết cả ruột gan khác gì cháu đâu. Nếu mọi người có mệnh hệ gì, hội chúng ta... Ài, thôi không nói nữa! - Ông lão thở dài đánh thượt một cái.
Đã mươi ngày nay, từ khi Giang Nam Thất Hiệp đi hành thích Khang Hi ở Quan Âm tự, hai người họ không đêm nào ngủ được tròn giấc, cứ hễ đặt lưng nằm xuống thiếp đi nửa canh giờ là lại giật mình ngồi bật dậy, ra ngoài cửa này ngóng đợi.
Nhạc Tam Nguyên ngồi phịch xuống bậc tam cấp dẫn từ hành lang xuống sân, sầu não nói:
- Cháu thấy mình thật vô dụng, tổng đà chủ và các vị đương gia đang cơn gian nguy, sinh tử chưa rõ. Còn cháu chỉ biết ngồi đây bất lực chờ đợi!
Ông lão nghe vậy cười khổ, tiến đến vỗ nhẹ lên vai chàng ta:
- Đừng coi nhẹ bản thân như vậy chứ, không tham gia hành động lần này thì còn lần khác. Tam Nguyên còn trẻ tuổi, tương lai ắt còn nhiều cơ hội ra sức cho hội. Như ông đây...
Ông lão thoáng trầm mặc, nói tiếp:
- Nắm xương già này chả biết có sống được tới ngày nhìn chúng ta hoàn thành đại nghiệp phục quốc hay không?
Nhạc Tam Nguyên giật mình, biết mình vô tình khơi lên tâm sự của ông lão bèn nói lảng đi:
- Ông lại cả nghĩ rồi. Hay là ông đi nghỉ chút đi. Có tuổi rồi, đêm nào cũng thức như vầy hại sức khỏe lắm. Để mình cháu chờ cửa được rồi.
- À được lắm, ông chỉ an ủi mà Tam Nguyên tưởng thật, lại chê ta già hả? Có tin trong mười chiêu Bàn Tính Gia này gõ bàn tính u đầu cháu không? - Ông lão bật cười mắng.
- Hậu sinh nào dám, ai chẳng biết Bàn Tính Gia xuất quỷ nhập thần chuyên trị đám giang hồ đại đạo, khiến chúng nghe tên là khiếp vía chứ!
Ông lão lắc đầu cười:
- Tam Nguyên học ai không học, lại đi học bản lĩnh mồm mép của thằng nhóc Hiểu Lạc. Thật là sư huynh nào sư đệ đó mà!
Hai ông cháu đều cười xòa khiến không khí nặng nề vơi bớt phần nào. Tuy Nhạc Tam Nguyên có pha trò đôi chút nhưng quả thực chàng ta không hề nói quá. Vốn ông lão này tên họ Trần Tôn, năm nay đã gần thất thập lục tuần, râu tóc bạc phơ cả rồi song năm xưa cũng là một hiệp khách cao thủ từng tung hoành ngang dọc ở Giang Nam. Nhờ thứ vũ khí độc đáo là một bộ bàn tính bằng sắt, ông được đồng đạo giang hồ khâm phục tặng cho ngoại hiệu Bàn Tính Gia. Sau này vì cảm phục đức độ của Mã Lương phu tử, ông mới xin theo bảo vệ kiêm luôn việc sổ sách.
Cũng phải nhắc lại rằng, đó là khi Mã Lương phu tử cùng hai người bạn tâm giao Tần Nhị, Lâm Vĩ cùng nhất trí đứng ra mở một ngôi trường dạy học miễn phí cho những trẻ em nghèo khó nhưng ham học, đặt tên là Hắc Viện. Sau này, khi biết thật ra ba người họ còn cùng với Cửu Nạn và Giác Viễn liên kết lập ra một hội kín chống lại triều đình nhà Thanh từ thời Hoàng Thái Cực, Trần Tôn vui mừng thấy đúng với lý tưởng phản Thanh phục Minh luôn nung nấu trong lòng liền trở thành một thành viên tích cực trong hội từ ngày đó.
Những năm đầu triều đại Hoàng Thái Cực, bang hội phục Minh có thanh thế rất lớn. Ngoài hai tổng đà chính, một nằm ở phía Nam tức Hắc Viện của tỉnh Hàng Châu một ở Tây Bắc Hồi Cương có tên “đồn Bạch Nhật,” hội còn xây dựng được vô số các phân đà nằm rải rác khắp các miền đại giang Nam Bắc. Sau này tới triều Thuận Trị thì bị trấn áp dữ dội, hội phải lui vào hoạt động âm thầm và kín đáo hơn.
Song thời kỳ khó khăn nhất của hội là vào năm thứ mười lăm đời Thuận Trị. Cùng một năm, bốn vị lãnh tụ Tần Nhị, Lâm Vĩ, Giác Viễn và Mã Lương lần lượt qua đời. Đặc biệt sự ra đi của Mã Lương tưởng đâu khiến Hắc Viện học xá phải giải tán rồi nhưng đám học sinh cho rằng đạo lý từ xưa tới nay "cha truyền con nối, sư phụ mất thì trò lên thay" bèn nhất loạt bầu người học trò tâm đắc của Mã Lương lúc bấy giờ làm viện trưởng.
Tần Thiên Văn, tức Cửu Dương khi đó nghĩ mình tuổi tác còn trẻ, vả lại tài cán chẳng được bao nhiêu bèn từ chối mãi. Cuối cùng chẳng biết kẻ nào nghĩ ra một ý, lại thêm sự nài nỉ thuyết phục của học sinh, Cửu Dương đành đứng ra thử giảng vài ba buổi. Ngỡ chẳng ai nghe, nào ngờ cách giảng bài mới mẻ của chàng ta không những khiến học đường càng lúc càng đông mà học trò nơi khác nghe danh cũng đến đăng ký theo học.
Bấy giờ cổng trước cổng sau Hắc Viện đều đóng im ỉm, đã qua canh ba một khắc nên bên ngoài tối đen như mực. Trong trường chỉ còn chút ánh sáng hắt ra từ những ngọn đèn lồng treo rải rác trên hành lang. Hai ông cháu ngồi lặng lẽ, thầm nghĩ đêm nay lại một phen chờ đợi vô ích rồi thì đúng lúc ấy có tiếng gõ cửa. Hai tiếng nhanh, cách quãng lại một tiếng chậm vang lên khe khẽ song không khác nào tiếng sấm bên tai họ. Đấy chính là ám hiệu các thành viên Thiên Địa hội quy ước với nhau.
Cạch một tiếng, ông lão nhanh tay rút then cài cửa. Nhạc Tam Nguyên cũng mừng như bắt được vàng, vội tiến đến.
- Cảm tạ ông Trời! Viện trưởng, cuối cùng ngài cũng bình an trở về!
Trần Tôn vui mừng thốt lên khi thấy Cửu Dương lảo đảo lách vào từ màn đêm.
Có thể nói ở miền Nam, Hắc Viện là học đường nổi bật nhất. Trường được xây cất khá bề thế và khang trang trên mảnh đất hình chữ nhật, tất cả diện tích khoảng ba mẫu. Xung quanh trường được bao bọc bởi một bức tường đá vôi cao hai thước hơn. Hắc Viện có hai cổng ra vào, một cổng chính nằm phía Tây gọi là Tây Quan và cổng hậu phía Đông gọi là Đông Hải. Cửu Dương đi vào từ cổng Đông Hải.
Trần Tôn liếc qua thấy đầu và cổ Cửu Dương lấm lem đất cát, trên lưng còn cõng thêm một người đang ngất lịm, nằm nghẹo cổ sang bên thì trong lòng hồi hộp. Trời tối mà ông lão tuổi già mắt kém, nheo mắt mãi vẫn không rõ là ai đành hỏi:
- Viện trưởng, là ai bị thương vậy?
- Dạ là tam ca - Cửu Dương đáp bằng giọng mệt nhọc.
Phía sau, Nhạc Tam Nguyên định chốt cửa lại thì Trần Tôn vội cản:
- Gượm đã!
Đoạn ông lão ghé mắt nhìn quanh quất một hồi ngoài cổng Đông Hải song nào thấy còn ai ngoài đó nữa. Ánh mắt lo âu nhìn theo bộ y phục tả tơi của Cửu Dương, ông không khỏi sợ hãi nhủ thầm: “Trời ạ, chỉ có hai người trở về thôi sao?”
Vừa nghĩ đã cảm thấy không rét mà run, Trần Tôn chốt cửa cẩn thận rồi vội vã chạy theo Cửu Dương hỏi:
- Viện trưởng... còn tổng đà chủ và mấy vị đương gia đâu?
- Dạ, cháu cũng đang lo lắm đây. Nhưng chuyện rất dài, tóm lại lần này kế hoạch của chúng ta đã thất bại rồi!
Cửu Dương thở hổn hển, vừa trả lời vừa bước nhanh trên khoảng sân rộng, đi xuyên qua hai dãy nhà ký túc xá.
Nhạc Tam Nguyên nói:
- Học trò đi tìm sư nương.
Cửu Dương thở phào, nét mặt mừng rỡ, chàng gật đầu. Nhạc Tam Nguyên chạy vào dãy nhà hướng Bắc.
Hai dãy nhà ký túc xá được cất song song ở mặt sau Hắc Viện, mái đều lợp bằng ngói đồng ngói ống. Nam Phong tư thất và Bắc Phong tư thất là tên của hai dãy nhà này. Đó là tập hợp những căn phòng rộng rãi lại có hành lang thoáng mát trước cửa với lan can bằng chấn song gỗ nối liền nhau. Ngoài ra nhà bếp, kho chứa thuốc, nhà chứa củi và nhà vệ sinh cũng đều có đủ.
Lúc này đã quá canh ba từ lâu, là lúc đám học sinh đương say giấc nồng. Tất cả đèn phòng đều tắt ngấm, ngoài tiếng chân của Trần Tôn và Cửu Dương trong sân, và tiếng chân Nhạc Tam Nguyên trong Bắc Phong tư thất thì tứ bề lặng ngắt như tờ.
Trần Tôn thấy Cửu Dương bước có phần loạng choạng như sắp ngã xuống, nói:
- Để lão nô cõng tam gia giúp ngài!
Cửu Dương không nỡ để ông lão cõng Tôn Hứa Khải còn chàng đi đứng nhẹ nhàng thanh thản, hơn nữa chàng còn gắng được, nói:
- Tam ca bị một vết thương nơi tâm mạch, nếu di chuyển chẳng may vỡ ra cháu chỉ e lành ít dữ nhiều!
- Vâng, lão hiểu!
Trần Tôn đáp, dùng ánh mắt ấm áp nhìn Cửu Dương, lời vừa rồi của Cửu Dương khiến ông vừa cảm thấy có lý vừa cảm thấy vui, Cửu Dương không bao giờ khiến ông cảm thấy vô dụng vì năm nay đã ngoài bảy mươi tuổi.
Bốn bàn chân không ngừng bước đi như chạy, vậy mà hồi sau mới tới được chỗ giếng nước Tụ Nguyệt.
Đây là một cái giếng có dạng hình thoi, đường kính miệng giếng ước độ xấp xỉ hai thước. Chiều sâu từ miệng giếng đến đáy giếng là mười lăm thước. Chung quanh ba mặt giếng được trồng một hàng rào hoa giấy cao gấp đôi thành giếng. Mặt còn lại dĩ nhiên để trống nhằm thuận tiện cho việc lấy nước. Bên trong hàng rào hoa giấy người ta lại lát một con đường nhỏ bằng gạch nung vòng quanh giếng. Theo quan niệm của người xưa, họ cho rằng giếng hình thoi tượng trưng cho mặt đất, khi tinh hoa trời mây chiếu vào nước sẽ mang đến điều may mắn. Bởi thế mục đích của việc đào giếng này ngoài cung cấp nước sinh hoạt còn để tạo phúc từ phong thủy.
Về phần cái tên Tụ Nguyệt là do chính Mã Lương đặt, với mong muốn các học sinh của Hắc Viện học xá cũng như giếng này hấp thu nguyên khí tinh hoa từ mặt trăng, đất trời và vũ trụ, đem ánh sáng tri thức tiếp thu được đó trau dồi trí tuệ và phẩm chất để trở thành những kỳ tài giúp đỡ đất nước.
Lúc này Cửu Dương cảm thấy mệt mỏi lắm rồi, bước chân chàng nặng như đeo chì, đi mãi mà cảm giác đoạn đường đến Tâm Thiền thư viện như cứ dài thêm ra, thật đúng y câu càng gấp càng thấy lâu, quan tâm tất loạn.
Giếng Tụ Nguyệt vừa khéo là giao điểm giữa mặt trước và mặt sau Hắc Viện. Mặt trước dĩ nhiên dùng làm học đường, bao gồm hai dãy giảng đường và Tâm Thiền thư viện. Hai dãy này lại chia thành giảng đường phía Nam và giảng đường phía Bắc, mỗi dãy ba mươi gian, mỗi gian có thể chứa năm mươi học sinh. Tâm Thiền thư viện được xây ngay chính giữa hai giảng đường này. Rất nhiều bộ sách nổi tiếng thời bấy giờ gồm cả chính bản và lưu bản đều được tập hợp lưu giữ ở biểu tượng văn hóa tôn nghiêm này.
Cửu Dương đi mãi rốt cuộc cũng thấy tấm bảng đề bốn chữ Tâm Thiền thư viện hiện ra trước mắt chàng. Trần Tôn bèn lật đật chạy lên trước đẩy cửa.
Cửu Dương nói cảm ơn Trần Tôn, cõng Tôn Hứa Khải trên lưng đi tới cuối thư viện, nơi có một cái tủ thờ, trên đặt bài vị ba anh em Lưu, Quan, Trương. Chiều cao phải hơn Cửu Dương khoảng gần một cái đầu.
Trần Tôn lại chen lên trước, nhanh nhẹn mở cửa tủ, kéo cái kệ sách ra, bên trong liền xuất hiện bậc thang để đi xuống một địa đạo.
Hai người cẩn thận đi xuống địa đạo. Hết bậc thang liền bước vào một căn phòng rộng có treo vài cây đuốc chỉ đủ để soi sáng hai lối đi sâu hun hút ngay trước mặt. Cửu Dương đã quá quen thuộc nên lập tức rẽ sang lối bên phải. Sau khi bước vào căn phòng đầu tiên nằm bên phải chàng cẩn thận đặt thân thể xụi lơ mềm oặt của Tôn Hứa Khải lên chiếc giường trong góc phòng.
Giữa phòng có một bộ bàn ghế, trên bàn có bình trà và dăm cái tách. Trong khi Cửu Dương đắp chăn cho Tôn Hứa Khải, Trần Tôn rót trà ra tách.
Cửu Dương đắp tấm chăn lên mình Tôn Hứa Khải xong, sắc mặt chàng chợt tái đi. Cả người vẫn lấm lem vấy máu, chàng cố gắng bước tới bộ bàn ghế, lảo đảo vịn tay ghế mà không xong bỗng trượt tay ngồi phệt xuống đất.
Trần Tôn bước đến đỡ lấy Cửu Dương đứng dậy ngồi vào ghế. Ông lão ân cần bưng cái tách trà vừa mới rót xong đặt xuống bàn trước mặt Cửu Dương.
Cửu Dương hít sâu một hơi để điều khí dưỡng thần, sau đó nói cám ơn ông lão rồi nâng tách trà lên uống một ngụm. Ông lão đánh mắt về hướng Tôn Hứa Khải đang nằm bất tỉnh trên giường.
Cửu Dương đặt tách trà xuống nói:
- Tam ca bị trúng độc không đơn giản, cháu đã gắng hết sức dùng nội công nhưng chỉ ép được một ít máu độc ra ngoài.
Trần Tôn đặt tay lên trán Cửu Dương.
Có thể nói, nhìn bề ngoài Hắc Viện chẳng khác gì những trường học bình thường khác nhưng bên trong chỉ những thành viên cốt cán mới biết nơi này ẩn chứa cả một tá bí mật.
Chẳng hạn như ngay bên dưới Tâm Thiền thư viện có xây một địa đạo, nơi những thành viên của Thiên Địa hội sử dụng như hệ thống phòng thủ trong lòng đất, được các thành viên bắt đầu đào vào cuối thời điểm trị vì của Hoàng Thái Cực và mãi cho đến cuối đời của hoàng đế Thuận Trị mới chính thức hoàn tất.
Họ chọn Hàng Châu vì qua khảo sát khu vực này được gọi là đất thép, tức loại đất sét hòa với đá ong nên có độ bền cao và rắn chắc. Bởi vì địa đạo không chỉ đơn giản là địa điểm bí mật để thành viên họp mặt bàn thảo kế hoạch mà còn là nơi ẩn trú của các đương gia và một số thành viên Thiên Địa hội tại Giang Nam mỗi khi nguy cấp. Ngoài ra, hệ thống này cũng là nơi lưu trữ binh khí, gạo, vàng bạc và lương khô cướp được trước khi đem đi phân phát cho những bá tánh nghèo khổ. Căn cứ bí mật này đã được sử dụng trong một thời gian dài chống phá triều đình nhà Thanh.
Lại nói đến Nhạc Tam Nguyên, chàng đang dẫn bốn người đi trên sân hướng tới thư viện. Nhạc Tam Nguyên đi đầu, theo sau chàng là thằng bé Hiểu Lạc và cô gái áo hồng.
Theo sau nữa là hai người đàn ông giống nhau như hai giọt nước. Hai người này là con trai của học giả Lữ Lưu Lương. Mấy năm trước, nhờ được Cửu Nạn thuyết phục, Lữ Lưu Lương đã đưa toàn bộ Lữ gia cùng tham gia phong trào phản Thanh phục Minh.
Hai anh em lần lượt tên Lữ Nghị Trung và Lữ Nghị Chánh, là một đôi huynh đệ song sinh, năm nay tròn hai mươi hai tuổi. Thoạt nhìn dáng dấp hai người này hết sức thư sinh, lại thêm hình dung sáng sủa, gò má cao, cái mũi thanh tú và nhất là môi đỏ hồng như con gái, khiến không ít người lần đầu gặp họ chợt nảy sinh suy đoán linh tinh.
Chẳng hạn như lần đầu tiên thằng nhóc Hiểu Lạc thấy họ ở Tây hồ gần Hắc Viện học xá, khi đó, cặp Lữ huynh đệ đang ngồi chơi cờ vây trên một chiếc ghe bên dưới gầm cầu Tây Lâm. Thực là non xanh nước biếc, phong cảnh hữu tình hòa quyện cùng một cặp nam tử như ngọc. Ấy vậy mà Hiểu Lạc nó cứ níu tay cô gái áo hồng cười hí hí.
Chỗ Hiểu Lạc và hồng y nữ tử đứng cách cầu Tây Lâm mươi thước