Đạo sĩ Uddaka tuổi đã bảy mươi lăm.
Ông được mọi người tôn sùng như một vị thánh sống.Ông muốn mọi người phải tu học theo từng giai đoạn từ thấp lên cao, và vì vậy sa môn Siddhatta phải làm lễ nhập môn và học lại từ những bài thực tập dễ dàng nhất.Chỉ trong vòng vài tuần lễ, Siddhatta đã chứng minh được cho vị đạo sư mới của mình rằng định vô sở hữu xứ ông đã thành tựu được và ông mong rằng đạo sư sẽ dạy cho ông con đường có thể đi xa hơn nữa.
Trông thấy diện mạo của Siddhatta, và nghe Siddhatta trình bày kiến giải của mình, đạo sĩ Uddaka rất đỗi vui mừng.Ông thấy nơi vị sa môn trẻ này con người có thể kế tục sự nghiệp của ông một cách xuất sắc.
Ông đổi cách tiếp đãi với Siddhatta và bắt đầu xem Siddhatta như một người tri kỷ.
Ông ôn tồn chỉ dạy cho Siddhatta rất cặn kẽ:– Này sa môn Siddhatta Gotama, trong định vô sở hữu xứ, cái không không còn là không gian, cái không cũng không còn là tâm thức nói chung, mà chỉ còn là tri giác.
Tri giác tức là tưởng, mà còn tưởng tức là còn đối tượng của tưởng, còn tri giác là còn đối tượng của tri giác.
Vậy thì con đường thoát của chúng ta là vượt được tri giác.Siddhatta cung kính hỏi lại:– Thưa thầy, nếu loại bỏ tri giác thì cái gì còn lại? Không có tri giác thì khác gì vật gỗ đá vô tri?– Gỗ đá vô tri cũng không phải là không tri giác.
Gỗ đá vô tri vẫn là có tri giác.
Ta phải đạt tới một trạng thái tâm lý trong đó cả hai niệm về hữu tri và vô tri đều được loại trừ.
Đó là trạng thái phi tưởng phi phi tưởng.
Sa môn Siddhatta Gotama, ông hãy về thực hiện cho được trạng thái đó của tâm.Siddhatta lĩnh ý.
Chỉ trong vòng mười lăm hôm, ông đã thực hiện được định phi tưởng phi phi tưởng.Định này, theo Siddhatta, cho ta có cảm tưởng là ta đạt tới một cảnh giới của nhận thức vượt ra ngoài mọi nhận thức thông thường, nhưng mỗi khi ra khỏi định, ông thấy cái nhận thức phi thường vẫn không thay đổi cái tình trạng của thực tại sinh tử.
Định ấy chỉ là một nơi trú ẩn mà không phải là một chìa khóa mở cửa thực tại.Khi Siddhatta trở lại với đạo sư Uddaka Ramaputta thì được đạo sư hết sức khen ngợi.
Sau khi biết Siddhatta đã thực hiện được định phi tưởng phi phi tưởng, Uddaka nắm tay Siddhatta:– Sa môn Gotama là người hành giả thông minh nhất mà tôi từng được gặp từ trước đến giờ.
Ngài đã đi những bước thật lớn, và đi rất mau lẹ.
Ngài đã đạt được cái quả vị cao nhất mà tôi đã đạt.
Tôi già rồi, và đã gần đất xa trời.
Nếu ngài ở lại đây, chúng ta sẽ cùng nhau quản lý đại chúng này và mai kia khi tôi qua đời rồi ngài sẽ thay tôi lãnh đạo đồ chúng.Cũng như lần trước, Siddhatta ngỏ lời khéo léo để từ tạ.
Ông biết định phi tưởng phi phi tưởng không phải là chìa khóa mở được cánh cửa giải thoát sanh tử.
Ông phải từ giã, nhưng trước khi từ giã, ông hết lòng cảm tạ vị thầy mới và các vị bạn đạo mới.
Ai cũng có vẻ quyến luyến và tiếc rằng vị sa môn đĩnh ngộ và tài năng này không ở lại với họ.Trong thời gian tu học tại đạo tràng Uddaka Ramaputta, Siddhatta đã làm quen với một vị sa môn trẻ tên Kondanna.
Kondanna rất mến phục Siddhatta, không những xem Siddhatta là một người bạn mà còn xem Siddhatta là một bậc thầy.
Trong đồ chúng, chưa ai đạt được tới định vô sở hữu xứ chứ đừng nói đạt tới phi tưởng phi phi tưởng xứ như Siddhatta.
Vị sa môn tân học Siddhatta đã được thầy của Kondanna đối xử như một người tri kỷ, Kondanna biết như thế.Mỗi lần nhìn Siddhatta, Kondanna lại thấy thêm vững niềm tin.
Bởi vậy nên ông đã nhiều lần tìm cách thân cận Siddhatta để học hỏi.
Do đó mối tình đồng đạo giữa hai người mỗi ngày mỗi trở nên khắng khít.Bây giờ Siddhatta ra đi, Kondanna không khỏi buồn tiếc.Ngày Siddhatta lên đường, vị sa môn này đã đưa ông xuống núi.
Đợi cho Siddhatta đi khuất ông mới trở lên.Biết rằng có đi tham vấn bao nhiêu vị đạo sư đi nữa mình cũng không học hỏi thêm được điều gì đáng kể, sa môn Siddhatta quyết định trở về tìm kiếm chìa khóa giác ngộ ngay trong tự tâm mình.Hướng về phía Tây, Siddhatta vượt những cánh đồng lúa, những vũng bùn lầy lội, những đầm nước đọng và những dòng suối đục ngầu.
Lội qua sông Neranjara, ông đi băng qua một cánh đồng nữa thì tới ngọn núi Dungsiri, thuộc địa phận tụ lạc Uruvela.
Ở đây có nhiều hang động.
Có những tảng đá cheo leo, có những rặng núi hình răng cưa, có những tảng đá thật lớn, lớn bằng những túp nhà của dân nghèo trong tụ lạc.Siddhatta quyết định lưu lại đây một thời gian để hạ thủ công phu, quyết tìm cho ra nẻo thoát.
Ông tìm được một cái hang động khá tốt để ngồi tĩnh tọa.
Ông nhớ rằng ông đã từng khuyên các nhà tu khổ hạnh đừng hành hạ xác thân họ, vì hành hạ xác thân như thế chỉ gây thêm khổ đau, trong khi cuộc đời đã có nhiều đau khổ rồi, nhưng hôm nay ông muốn xét lại điều ấy một cách kỹ lưỡng hơn.
Ngồi trong hang đá, ông tự bảo:– Với một miếng gỗ mềm và ướt thì ta không thể nào cọ xát làm cho lửa phát sinh được.
Thân thể ta cũng vậy, nếu thân thể ta còn bị vật dục khống chế thì tâm ta khó có thể đạt tới giải thoát.
Ta hãy tìm cách chế ngự thân thể ta xem sao.Sa môn Gotama bắt đầu thực hành những phương pháp chế ngự thân thể.
Có những hôm, ông tìm tới những nơi thật thanh vắng trên rừng sâu, những nơi mà có người chỉ nghĩ đến thôi cũng đủ rợn ốc trên người và tóc sau gáy dựng lên, để ngồi suốt đêm.
Thỉnh thoảng cái sợ đến và xâm chiếm cả thân tâm ông, nhưng ông vẫn ngồi yên, không hề nhúc nhích.Có khi trong đêm tối đen, một con nai sột soạt tới gần.
Cái sợ của ông nói với ông rằng đó là một con quỷ dạ xoa hiện đến đoạt mạng, nhưng ông vẫn gan lì ngồi yên không nhúc nhích.
Có khi trong đêm đen, một con chim phụng đạp gãy một cành cây khô.
Cái sợ của ông nói với ông rằng đó là một con trăn sắp trườn xuống và quấn chặt lấy ông, nhưng ông vẫn gan lì ngồi không nhúc nhích, mặc cho cái sợ chạy rần rần trên da đầu ông như một bầy kiến lửa.Ông tập như vậy để có thể vượt thắng sự sợ hãi.
Ông nghĩ rằng một khi xác thân vượt thoát được những cám dỗ rồi thì tâm ý cũng có thể vượt thoát được những ràng buộc của khổ đau.Có khi ông ngồi ngậm miệng cứng lại, để lưỡi sát vào họng trên, dùng tâm ông để điều phục niềm thao thức bồn chồn trong tâm ông, như hai người lực sĩ đè bẹp một người yếu đuối, và bắt người yếu đuối này phải thốt lời khuất phục.Dùng tâm mà đàn áp tâm kiểu ấy trong một hồi thì mồ hôi chảy ra ướt hết cả mình mẩy ông.Tuy vậy, dù niệm lực có mạnh, dù ý chí đầy dẫy, dù những đau khổ gây ra trên thân xác có da diết tới cách nào đi nữa thì tâm ông vẫn không đạt tới sự an tịnh.Có khi ông vừa thực tập vừa nín thở, không thở ra cũng không thở vào.
Khi thực tập như thế, ông nghe tiếng gió mạnh như vũ bão phát ra trong đầu ông, từ hai lỗ tai đi vào, âm thanh giống như âm thanh của một chiếc lò rèn đang được thụt lửa.
Những luồng gió hung dữ xoáy mạnh trong đầu óc ông và đầu ông đau như có ai lấy lưỡi rìu bửa ra làm hai mảnh.Có khi đầu ông đau như bị ai lấy một cái niềng sắt niềng lại.
Bụng ông đau như một con bò bị người đồ tể lách lưỡi dao nhọn quanh sườn.
Thân thể ông đau như bị người ta túm lấy và đem nướng trên một lò than đang cháy rực.Những lúc thực tập để chế ngự thân thể như thế, dù ý chí và năng lượng đầy dẫy, dù niệm lực hùng hậu, dù xác thân ông có đau đớn cực độ, tâm ông cũng không nhờ vậy mà được an ổn hơn lên.Sa môn Gotama thực tập khổ hạnh như vậy trong gần sáu tháng.
Trong ba tháng đầu chỉ có một mình ông thực tập khổ hạnh trên núi.
Đến tháng thứ tư, có năm vị sa môn đệ tử của đạo sư Uddaka tới với ông, Kondanna là người lãnh đạo nhóm này.
Gặp lại Kondanna, Siddhatta rất vui.
Kondanna cho biết là một tháng sau khi Siddhatta từ giã, chính Kondanna cũng đã thực hiện được định phi tưởng phi phi tưởng xứ và nghĩ rằng mình sẽ không học được gì thêm từ đạo sĩ Uddaka.
Nghĩ vậy, ông đã rủ bốn người bạn thân đi tìm Siddhatta.Sau hơn một tháng trời tìm kiếm họ đã may mắn tìm ra Siddhatta.
Họ ngỏ ý muốn ở lại tu học với ông dưới sự hướng dẫn của ông bởi vì họ tin tưởng nơi ông.
Siddhatta đành phải chấp nhận.
Ông giải thích cho họ biết tại sao ông đang thí nghiệm con đường điều phục thân xác.
Nghe xong, cả năm người cũng quyết thực tập theo.Bốn vị sa môn đi theo Kondanna cũng đều là những vị sa môn còn trẻ.
Họ tên là Vappa, Bhaddiya, Assaji và Mahanama.
Mỗi người tìm một cái hang đá để ở; hang của họ không xa nhau mấy.
Mỗi ngày chỉ một người đi khất thực thôi, và phần ăn của một người được chia ra làm sáu.
Thức ăn hàng ngày của mỗi người rất ít, và có thể để gọn trong bàn tay trái khẳng khiu của một người.Ngày tháng qua đi.
Thân thể cả sáu người đều hao gầy đi rất nhiều.
Có những lúc Siddhatta thực tập khống chế hình hài đến nước năm người bạn tu phải khiếp đảm.
Họ thấy trong bất cứ pháp môn tu tập nào họ cũng không theo kịp Siddhatta.
Những tháng gần đây, Siddhatta bỏ luôn cả việc đi tắm dưới sông Neranjara.
Ông bỏ luôn một phần thực phẩm được chia cho ông.
Có ngày, ông chỉ ăn một trái ổi thối mà ông lượm được dưới chân.
Có khi ông chỉ ăn miếng phân bò khô trên bờ ruộng.
Thân hình ông tiều tụy quá, chỉ còn da bọc lấy xương.
Bao nhiêu xương sườn của ông đều lộ rõ ra.
Ông không hề cạo tóc.
Có khi ông đưa tay lên sờ đầu và thấy tóc ông rụng xuống từng mảng như là những sợi tóc ấy không còn chỗ để đứng trong da đầu ông.
Cho đến một hôm đó ngồi thiền định trong bãi tha ma dưới chân núi, Siddhatta bừng tỉnh, thấy được rằng con đường khổ hạnh là con đường sai lầm.Nắng đã tắt và gió chiều nhè nhẹ tới mơn trớn trên làn da ông.
Đã ngồi trọn một ngày trong nắng, bây giờ Siddhatta thấy làn gió mát dịu lạ thường, và ông thấy tâm hồn ông sảng khoái hơn ban ngày nhiều lắm.
Ông nhận ra rằng thân và tâm là một thực thể không thể tách rời ra được và sự an lạc của thân có liên hệ tới sự an lạc của tâm, hành hạ xác thân cũng là hành hạ tâm trí.Ông nhớ đến thời niên thiếu, hồi ông mới lên chín tuổi, lần đầu tiên ông ngồi yên lặng dưới bóng mát cây hồng táo trong ngày lễ cày ruộng đầu năm.
Cảm giác hồi ấy là một cảm giác an lạc, làm cho ông tỉnh táo và sáng suốt lạ thường.Ông