Một buổi chiều nọ, khi Bụt đang đi thiền hành trên triền núi, có hai người võng đại đức Devadatta lên.Đại đức Devadatta ốm nặng đã mấy năm nay.
Đại đức muốn thấy mặt Bụt trước khi qua đời.Hai người đang khiêng đại đức là hai người trong số sáu người đệ tử còn sót lại.Trong thời gian ngọa bệnh trên núi Gayasisa, không mấy ai đến thăm đại đức, kể cả những người đã ủng hộ đại đức tích cực nhất ngày xưa.Suốt thời gian ấy, đại đức đã có nhiều cơ hội nghĩ lại về những đắc thất và về giá trị của hành động mình.Được báo là có đại đức Devadatta lên và xin được gặp, Bụt liền trở về tịnh thất.
Đại đức yếu lắm, không ngồi dậy được.
Đại đức cũng không nói được nhiều, đại đức chỉ nhìn Bụt, cố gắng chắp tay lại: “Con về nương tựa Bụt”, đại đức cố gắng lắm mới nói được những tiếng đó.Bụt để tay lên trán Devadatta và an ủi đại đức.
Chiều hôm ấy đại đức qua đời.Bây giờ là mùa nắng, trời trong xanh, Bụt đang sắp sửa đi du hành thì có sứ giả của vua Ajatasattu tới.
Sứ giả là quan đại thần Vassakara, một người thuộc giai cấp Bà la môn.
Ông được lệnh vua tới đảnh lễ Bụt và cho Bụt biết chủ định của vua và triều thần muốn cử binh đi đánh nước Vajji ở phía Bắc sông Hằng.
Vua muốn được nghe phản ứng của Bụt và đã dặn vị đại thần ghi nhớ tất cả những gì Bụt sẽ phát biểu về vấn đề này.Trong khi Bụt tiếp quan đại thần Vassakara, đại đức Ananda đứng sau lưng Bụt và quạt cho người.
Bụt xoay lại hỏi thầy:– Này đại đức Ananda, thầy có nghe dân chúng Vajji thường hay hội họp đông đảo để bàn bạc chính sự không?Đại đức Ananda đáp:– Thế Tôn, con nghe nói dân Vajji rất chuyên cần hội họp và hội họp rất đông đảo để đàm luận về chính sự.– Vậy thì nước Vajji vẫn còn cường thịnh.
Ananda, thầy có biết khi họ hội họp với nhau, họ có bày tỏ sự hòa hợp đoàn kết và có một lòng một dạ với nhau không?– Bạch Thế Tôn, con nghe họ rất hòa hợp và đoàn kết với nhau.– Vậy thì chắc chắn nước Vajji vẫn còn rất cường thịnh.
Ananda, dân Vajji có tôn trọng và có sống đúng theo những pháp chế đã được ban hành không?– Bạch Thế Tôn, con nghe họ rất tôn trọng những pháp chế đã được ban hành.– Vậy thì chắc chắn nước Vajji vẫn còn cường thịnh.
Ananda, dân Vajji có còn biết tôn trọng và nghe lời những bậc tôn trưởng của họ không?– Thế Tôn, con nghe họ rất biết tôn trọng và nghe lời những bậc tôn trưởng của họ.– Vậy thì nước họ vẫn còn cường thịnh.
Đại đức Ananda, thầy có nghe trong xứ của họ có những vụ bạo động và hãm hiếp không?– Bạch Thế Tôn, những vụ bạo động và hãm hiếp ít bao giờ xảy ra ở xứ họ.– Vậy thì nước Vajji vẫn còn cường thịnh.
Ananda, thầy có nghe dân Vajji còn biết bảo vệ tông miếu của tổ tiên họ không?– Bạch Thế Tôn, con nghe họ vẫn còn biết bảo vệ tông miếu của tổ tiên họ.– Vậy thì Ananda, nước Vajji vẫn còn cường thịnh.
Thầy có nghe là dân Vajji biết tôn kính, cúng dường và chịu học hỏi theo các hàng tu sĩ đạt đạo không?– Bạch Thế Tôn, cho đến ngày nay họ vẫn rất tôn kính, cúng dường, và học hỏi với các vị tu sĩ đạt đạo.– Ananda, vậy thì chắc chắn nước Vajji vẫn còn cường thịnh, chưa bị suy đồi.
Ananda, ngày xưa Như Lai đã từng có dịp chỉ dạy cho giới lãnh đạo ở Vajji về bảy yếu tố giữ gìn cho quốc gia không suy thoái, gọi là thất bất thoái pháp.Đó là chuyên cần hội họp, hòa hợp và đoàn kết, tôn trọng pháp chế đã ban hành, tôn trọng và nghe lời các bậc tôn trưởng, không bạo động và hiếp đáp, biết bảo vệ tông miếu tổ tiên và tôn kính các bậc đạo hạnh.Ananda, thì ra họ vẫn còn thi hành bảy phép bất thoái ấy, Như Lai tin rằng quốc gia Vajji vẫn còn cường thịnh, chưa bị suy nhược, và do đó Như Lai nghĩ rằng nước Magadha không thể đánh chiếm được nước họ.Đại thần Vassakara bạch:– Thế Tôn, dân Vajji chỉ cần thực hành một trong bảy phép đó thì cũng đủ làm cho nước họ cường thịnh rồi, huống hồ là họ thực hành cả bảy phép.
Thế Tôn, con nghĩ vua Ajatasattu không thể thắng được dân Vajji bằng sức mạnh vũ khí đâu.
Vua chỉ có thể thắng họ nếu vua gieo được sự chia rẽ trong giới lãnh đạo của họ.
Thế Tôn, con xin cảm tạ người, con phải về lo công việc.Sau khi đại thần Vassakara từ giã, Bụt than thở với Ananda:– Vị đại thần này có nhiều mưu chước lắm.
Như Lai ngại là trong tương lai, vua Ajatasattu sẽ cử binh đánh chiếm nước Vajji.Chiều hôm ấy, Bụt nhờ đại đức Ananda đi triệu tập tất cả các vị khất sĩ có mặt ở thủ đô Rajagaha và trong các vùng phụ cận về núi Thứu.Chỉ trong vòng bảy hôm các vị khất sĩ và nữ khất sĩ trong vùng đã quy tụ về đầy đủ.
Gần hai ngàn vị đã về tới, màu áo cà sa làm vàng rực cả năm ngọn đồi của Linh Thứu sơn.
Đến giờ đại hội, tất cả đều quy tụ về sân trước của giảng đường.Đại chúng được triệu tập đông đủ, Bụt từ tịnh thất thong thả đi xuống.
Người bước lên pháp tọa cao.
Đưa mắt nhìn đại chúng, Bụt mỉm cười và nói:– Các vị khất sĩ! Như Lai sẽ chỉ dạy cho các vị bảy phương pháp để giữ gìn cho chánh pháp và giáo đoàn không bị suy thoái.
Các vị hãy lắng nghe.Thứ nhất là các vị nên thường xuyên gặp mặt nhau trong những buổi hội họp đông đủ để học hỏi và luận bàn về chánh pháp.Thứ hai là các vị tới với nhau trong tinh thần hòa hợp và đoàn kết, và chia tay nhau trong tinh thần hòa hợp và đoàn kết.Thứ ba là cùng tôn trọng và sống theo giới luật và pháp chế một khi những giới luật và pháp chế ấy đã được ban hành.Thứ tư là biết tôn trọng và vâng lời các bậc trưởng lão có đạo đức và kinh nghiệm trong giáo đoàn.Thứ năm là sống một nếp sống thanh đạm và giản dị, đừng để bị lôi cuốn vào tham dục.Thứ sáu là biết quý đời sống tĩnh mặc.Thứ bảy là biết an trú trong chánh niệm để thực hiện an lạc và giải thoát, làm chỗ nương tựa cho các bạn đồng tu.Này các vị khất sĩ! Chừng nào mà các vị còn thực hành được bảy điều ấy, gọi là bảy phép bất thối, thì đạo pháp còn hưng thịnh và giáo đoàn không bị suy thoái.
Không một yếu tố nào bên ngoài có thể phá hoại được giáo đoàn.
Chỉ có những phần tử bên trong giáo đoàn mới có thể làm cho giáo đoàn tan rã mà thôi.Các vị khất sĩ! Khi con sư tử chúa của mọi loài ở chốn sơn lâm ngã quỵ, không có một loài nào đám đến ăn thịt nó.
Chỉ có những con trùng phát sinh từ bên trong thân thể của sư tử mới ăn thịt được sư tử mà thôi.Các vị hãy bảo vệ chánh pháp bằng cách sống theo bảy phép bất thối, đừng bao giờ tự biến mình thành những con trùng trong thân thể của con sư tử.Sau khi đã chỉ dạy những vị khất sĩ về bảy phép bất thối, Bụt dặn các vị khất sĩ đừng nên phí bỏ thì giờ quý báu của mình để la cà nói chuyện phiếm, để ngủ vùi, đừng đánh mất mình trong danh lợi và tham dục, đừng thân cận với những người xấu ác và biếng lười, đừng tự mãn với những kiến thức và những trình độ chứng đắc thấp thỏi.Bụt nhắc lại giáo lý bảy yếu tố giác ngộ như con đường mà mỗi vị khất sĩ phải đi: yếu tố chánh niệm, yếu tố quán chiếu vạn pháp, yếu tố tinh tiến, yếu tố hỷ lạc, yếu tố nhẹ nhõm, yếu tố định và yếu tố hành xả.Bụt lại chỉ dạy về các phép quán vô thường, vô ngã, bất tịnh, buông bỏ, xa lìa tham dục và giải thoát.Hai ngàn vị khất sĩ được sống với Bụt trên núi Linh Thứu được mười hôm.
Họ cư trú khắp nơi trên năm ngọn đồi, nơi cội cây, hang đá, am thất, khe suối… Mỗi ngày các vị tụ tập một lần tại sân giảng đường để nghe Bụt giảng dạy.
Thính chúng ngồi thành nhiều bậc bởi vì sân không đủ rộng để chứa đủ số người.Qua ngày thứ mười, Bụt từ giã các vị khất sĩ và khuyên họ xuống núi và trở về trú sở để hành đạo.
Chỉ có các vị thường trú ở Linh Thứu là còn ở lại mà thôi.Các vị khất sĩ xuống núi rồi, Bụt từ giã thủ đô Rajagaha, người hướng về Ambalatthika.
Ambalatthika là khu lâm viên nghỉ mát của vua Bimbisara, nơi Bụt và các vị khất sĩ thường ghé trên đường đi Nalanda.
Hai thầy trò Sariputta và Rahula ngày xưa đã từng cư trú tại đây.Tại Ambalatthika, Bụt thăm viếng và ủy lạo các vị khất sĩ, Bụt dạy cho họ thêm về giới, định và tuệ.Rời Ambalatthika, Bụt đi Nalanda.
Đoàn khất sĩ đi theo Bụt có chừng một trăm vị.
Các đại đức Ananda, Sariputta và Anurudha đi sát bên người.
Tới Nalanda, Bụt nghỉ ở vườn xoài Pavarika.Sáng ngày hôm