Tình hình của Lương châu đã vượt xa khỏi dự liệu của triều đình.
Ban đầu họ cho rằng lần này kẻ xuôi nam vẫn là bộ tộc nhỏ gần mười năm nay sống rải rác ở phía bắc Nhạn môn, không ngừng đến gây rối nên lúc đó ngoại trừ một mình Lương vương lo lắng ra thì văn võ cả triều đều không xem trọng, thậm chí có kẻ còn cho rằng Lương vương không để ý đến thời gian kết hôn với công chúa mà đến tiền tuyến đôn đốc việc đàn áp bọn giặc vẻn vẹn ngàn người, trừ khả năng muốn mua danh cầu lợi ra thì chính là sự bất kính rất lớn đối với triều đình.
Không biết hoàng đế từ đâu nghe được những lời bàn lén lút ấy mà lên án kịch liệt một trận trong triều, rằng: “Lương châu là cửa ngõ phía bắc của Trung Nguyên, Lương vương Tất Long tôn kính làm hết phận sự canh giữ, không tiếc việc lùi lại hôn kỳ tạ tội với triều đình, tự mình chống địch ở trận tiền.
Các đại thần làm quan trong triều không biết nỗi khổ cực gian nan của tướng sĩ biên quan mà còn phỉ báng xằng bậy ở sau lưng.
Từ rày nếu còn những lời đồn đại này truyền tới chỗ trẫm nữa thì phải chỉ đích danh đưa tới biên cương sung quân.”
Nếu Hung Nô đã xâm phạm, Lương vương còn ở trận tiền thì hoàng đế sao yên vui cho được? Năm nay hoàng đế lại chưa theo thái hậu cùng đi tới Thượng Giang tránh nóng.
Bấy giờ thống lĩnh thị vệ Hạ Dã Niên nhận việc bên ngoài, tuần sát trường thi võ ở các nơi nên hoàng đế đặc biệt ra lệnh Khương Phóng thay thế, bảo vệ thái hậu, thái phi lên đường và hầu giá ở hành cung.
Tình hình lúc bấy hơi bất ổn, hoàng đế chỉ e thái hậu bị kinh sợ ở trên đường hoặc ở hành cung nên khiêm khắc lệnh cho Khương Phóng mang nhiều binh lính bảo vệ thái hậu ở hành cung, không được có sai sót.
Ngày tám tháng Sáu, quân báo khẩn cấp từ Lương châu cách tám trăm dặm đến kinh, Hung Nô chừng vạn người đã công phá Nhạn Môn quan, đốt giết cướp đoạt, ba ngày thì lui binh, làm chết ba nghìn tướng sĩ, hơn hai nghìn dân chúng bị giết bị cướp, mất vô số lương thực súc vật.
Lương vương Tất Long không kịp chờ lệnh của triều đình đã điều động ba vạn binh mã Lương châu ra cửa quan hiểm yếu, đóng ở vùng Nhạn môn, Xuất Vân.
Hoàng đế lập tức trả lời quân báo, chấp thuận cho Lương vương điều động binh mã địa phương, lại lệnh cho bộ Binh, viện Xu Mật[1] và bộ Hộ cùng bàn đối sách, thúc giục việc phân phát lương bổng.
[1] là cơ quan chính quyền trung ương chịu trách nhiệm về lực lượng quân sự của nhà nước
Ngày mười lăm tháng Sáu, tiền tuyến truyền đến tin chiến thắng, cả vạn binh mã của Lương vương gặp Hung Nô, Hung Nô có một vạn người, lực lượng hai phe ngang nhau.
Tất Long làm gương cho binh sĩ, chiến đấu quyết tử nửa ngày, may mắn có viện binh đánh lén cánh sườn Hung Nô làm Hung Nô đại bại bỏ chạy cả trăm dặm.
Lương vương bị trúng một mũi tên trong lúc ác chiến, đã được đưa gấp về Nhạn Môn quan, trong lúc cấp bách vẫn còn xin công cho hai đại tướng dùng binh cơ trí, cứu viện kịp thời là Lưu Tư Hợi và Ô Duy.
Hoàng đế xem tấu của Tất Long rồi đối chiếu với mật tấu của Tịch Tà, nói: “Tất Long không nói dối gì, anh ta gan dạ thành thật, là một hiền vương giỏi cầm binh.
Vào lúc này của năm ngoái Tất Long đang ở trong kinh, khi đó trẫm cảm thấy tuy anh ta còn trẻ tuổi, lại lắm nao núng a dua nên không coi anh ta ra gì, nay nghe khanh tấu mới biết anh ta anh dũng thiện chiến, không có lòng riêng trong việc lớn của quốc gia, thật là đáng kính.
Tiếc nỗi…”
Tịch Tà nói: “Chỉ cần có thể làm việc cho hoàng thượng thì đều coi là người một nhà.
Nay Tất Long ở tiền tuyến, lương thảo quân lương đều bị hoàng thượng khống chế, đã rơi vào trong tay hoàng thượng, Hung Nô xuôi nam lại thành cơ hội của hoàng thượng.
Lời này của nô tỳ quả là đại nghịch bất đạo, xin hoàng thượng thứ tội.”
Hoàng đế cười, nói: “Lời này có lý, nói riêng thì trẫm sẽ không trách khanh.
Có điều Tất Long dùng binh dũng mãnh, cuộc chiến này cũng không kéo dài đâu.”
Tịch Tà nói: “Nô tỳ cảm thấy bên trong này còn có nghi vấn.
Năm ngoái Hung Nô xâm phạm chỉ lác đác hơn ngàn người, sao lần này đã đạt đến cả vạn? Lương vương vốn là người Hồ, có lắm tai mắt ở phía bắc Nhạn môn, nếu không biết Hung Nô hành động khác trước thì cần gì kéo dài thời gian kết hôn mà vội vàng đến các cửa ải quan trọng? Nô tỳ cảm thấy không thể coi thường cuộc giằng co với Hung Nô lần này được.”
Hoàng đế bảo: “Hiếu Tông gia và tiên đế chinh phạt Hung Nô trong suốt hai mươi năm, năm Thượng Nguyên thứ sáu năm và năm thứ chín đuổi Hung Nô ra xa nghìn dặm, khó khăn lắm mới có mười lăm năm thái bình, lẽ nào chúng lại muốn ngóc đầu trở lại sao?”
Tịch Tà nói: “Thiền Vu[2] đều có thủ đoạn tàn khốc, nhiều năm chinh chiến thống nhất các bộ tộc, chỉ sợ lúc này thảo nguyên nghìn dặm ngoài cửa ải đã không thể thỏa mãn dã tâm của ông ta rồi.”
[2] Tên hiệu của vua Hung Nô.
“Mấy năm trước trong tấu báo cáo của Lương vương còn nhắc tới tên Thiền Vu này, đã hơn năm mươi tuổi rồi, ắt hẳn trước khi chết muốn nếm thử cái ngon ngọt của Trung Nguyên.
Phương Bắc có ông ta nhìn chằm chằm như hổ đói, ở đây lại thêm vài thân vương giấu giếm âm mưu, đúng là loạn trong giặc ngoài.”
Tịch Tà cười lạnh lùng lạ thường, nói: “Quân đội tinh nhuệ của Hung Nô hung hãn sắc bén là mâu, đại quân chư hầu hùng bá một phương, mạnh ai lấy làm là thuẫn, hai bên đều là thần binh lợi khí trong tay hoàng thượng.
Lấy cái mâu kia tấn công cái thuẫn kia, hoàng thượng cho rằng kết cục sẽ ra sao?”
Hoàng đế phe phẩy cây quạt, chậm rãi bảo: “Chúng ta cũng coi như là người đang đùa với lửa.
Muốn lửa này không đốt vào sân nhà mình thì phải tốc chiến tốc thắng.”
Tịch Tà nói: “Hoàng thượng thánh minh.”
“Chuyện khác thì cứ từ từ bàn bạc mà làm.” Hoàng đế nói, “Nhưng thời gian kết hôn của Cảnh Giai không thể làm chậm trễ mãi được.
Nếu như trận chiến này mất hai ba năm, Tất Long khó có thể thoát thân, hoặc nếu chết trận thì chẳng phải Cảnh Giai sẽ chịu bất hạnh ư?”
“Chỗ nô tỳ còn có một việc chưa tâu với hoàng thượng.
Hai ngày trước công chúa đã lên đường đến Nhạn Môn quan, muốn thành thân với Lương vương trước quân đội.”
Hoàng đế ném cây quạt xuống bàn, biến sắc nói: “Cái gì? Kẻ nào xúi bẩy nó đi đấy?”
“Bề tôi nào dám giật dây công chúa mạo hiểm đâu ạ.
Chuyện này chỉ có bản thân công chúa quyết định được thôi.”
So với sầu lo thì hoàng đế càng cảm thấy việc này không thể tưởng tượng nổi.
Hắn ta đi mấy bước xong cuối cùng đành cười nói: “Từ Lương châu tới Nhạn môn ít cũng phải đi mười ngày, trên đường hung hiểm cỡ nào.
Nó không thèm để ý những việc này, vội vã muốn lấy người ta đến thế cơ à?”
Công chúa Cảnh Giai đã chạy gấp ở trên thảo nguyên năm ngày rồi, tính ra đã đến Lương châu hai ngày, lộ trình đã qua bảy phần mười.
Vén rèm cửa sổ xe ngựa lên, thứ có thể nhìn thấy vẫn là thảo nguyên và bầu trời xanh lam.
Bởi vì gần đây Hung Nô làm loạn kịch liệt nên vùng Nhạn môn đã không còn ai dám chăn thả, thế nên nguyện vọng nhỏ nhoi là được trông thấy cảnh tượng dê bò thành đàn của công chúa Cảnh Giai cũng coi như tan vỡ.
Không cần phải nói, lúc này chắc chắn triều đình Trung Nguyên đang trách mình tùy hứng, nhưng ở Lương châu, vừa nói mình muốn đến tiền tuyến theo Lương vương Tất Long thì “bao nhiêu người đàn ông hào sảng cũng phải đồng thanh hoan hô”.
Vợ bé Hòa Lam của Lương vương cũng giơ ngón cái khen ngợi công chúa Cảnh Giai.
“Nếu công chúa quyết ý đến Nhạn môn thì thần thiếp ắt sẽ hầu ở bên.” Hòa Lam có dáng người cao gầy, làn da trắng nõn được mái tóc dài đen nhánh thắt bím làm nổi bật lên như tuyết rơi, lộ ra vẻ linh lợi, lúc cười mang theo sự sảng khoái mà các cô gái Trung Nguyên ít có.
Đặc biệt là tiếng phổ thông cuốn lưỡi của nàng ta khiến giống như âm nhạc, khiến người ta say mê.
“Đây là cái gì thế?” Cảnh Giai nhìn nàng ta thấy thân thuộc, mới trỏ về phía cái móc câu màu vàng kỳ lạ ở bên hông nàng ta mà hỏi.
“Vật này ư?” Hòa Lam lại cười, “Đây là cái móc mà con gái người Hồ chúng thần thiếp dùng để treo đao.
Thần thiếp không dám đeo đao gặp công chúa, cho nên công chúa chỉ nhìn thấy vật này mới cảm thấy kỳ lạ.”
“Cô cũng đeo đao à? Cởi cái móc này xuống cho ta xem một lúc được không?”
Hòa Lam ngớ ra, nói: “Công chúa thứ tội, đây là vật Lương vương ban thưởng, ban ngày cởi xuống không may mắn lắm.”
Cảnh Giai thở dài, nói: “Việc này còn phải chú ý nhiều vậy à?”
“Cái móc treo này tên móc ly biệt, do người chồng đưa tặng cùng loan đao khi mang sính lễ đến, ban ngày không thể rời khỏi người, rời thì sẽ xa cách phu quân, tự quay về nhà mẹ đẻ, mãi mãi không gặp lại nữa.
Cho nên người Hồ chúng tôi chỉ cần tháo móc ly biệt của vợ xuống là coi như bỏ vợ rồi.”
Cảnh Giai cười nói: “Lúc Lương vương dâng sính lễ lên triều đình không có cái thứ này.”
Hòa Lam nói: “Công chúa là người Trung Nguyên, lại là lá ngọc cành vàng, không thể so sánh với con gái người Hồ chúng thần thiếp được.”
Từ đó trở đi, Cảnh Giai vẫn ngẫm nghĩ mãi những lời này.
Lúc bấy xe ngựa đã lắc lư làm gân cốt nàng sắp nứt, bên tai lại truyền tới tiếng ca như ánh mặt trời rọi khắp thảo nguyên của Hòa Lam, đám hầu gái nhẹ nhàng hợp âm giống như mây trắng trôi ở chân trời.
Trên móc ly biệt bên hông Hòa Lam treo một thanh đao cong như trăng non, châu sáng ngọc quý phản xạ ánh mặt trời đâm vào làm Cảnh Giai không mở mắt nổi.
“Công chúa có biết cô nàng này chính là vợ bé mà Lương vương sủng ái nhất không?”
Cảnh Giai thờ ơ với lời nói của Quý ma ma, lơ đãng nói: “Thật sao?”
“Công chúa chớ coi thường nàng ta, trong phủ Lương vương đều gọi nàng ta là Hòa Lam phi đấy.
Trước giờ Lương vương chưa có vương phi chính thất, không thể phong nàng ta, nay chỉ chờ công chúa và Lương vương thành hôn là sẽ cho nàng ta danh phận trắc phi.”
“Ma ma đúng là người thích pha trò!” Cảnh Giai buông rèm cửa sổ xuống, thấp giọng nói, “Bà muốn đường đường một cô công chúa Trung Nguyên như tôi tranh giành tình cảm với một cô gái người Hồ hay sao?”
“Nô tỳ không dám.”
“Nếu không phải thấy bà đã nhiều tuổi như vậy mà còn theo tôi lên bắc thì lúc này đã vả miệng bà rồi.”
Xe ngựa đột nhiên lắc lư, đột ngột ngừng lại, bên ngoài ngựa hí người kêu.
Quý ma ma vén mành trước mặt lên, thò đầu ra hỏi: “Có chuyện gì thế?”
Hòa Lam quay đầu ngựa lại đi tới, chỉ vào con đường cuồn cuộn bụi bay phương bắc, nói: “Có bốn năm nghìn người ngựa chỉ cách đây có hơn mười dặm.”
Đậu Căng vội vã chạy tới, vừa lúc nghe được câu này, sắc mặt đã tái xanh, nói năng lộn xộn: “Công, công chúa, nên làm thế nào cho phải? Làm thế nào cho phải đây?”
Hòa Lam nói: “Hai nghìn tướng sĩ Trung Nguyên, hai nghìn thị vệ hộ tống của Lương châu, miễn cưỡng có thể quyết chiến cùng bọn chúng, nhưng khó bảo vệ chu đáo cho công chúa.
Nay chỉ đành để bốn ngàn người các người ngăn cản một lúc để tôi dẫn công chúa trốn ra phía sau gò núi hướng đông nam kia.”
Tướng sĩ người Hán là Lỗ Tu cũng đi đến, gật đầu nói: “Cứ làm theo Hòa Lam phi nói, Đậu đại nhân mang mệnh lệnh, mời cùng tránh đi trước.”
“Dạ dạ dạ.” Đậu Căng như được đại xá, nói với phu xe, “Còn không mau đi theo Hòa Lam phi.”
Hòa Lam nói: “Lúc này còn dùng xe ngựa thế nào được? Công chúa, xin di giá ra bên ngoài, thần thiếp dẫn công chúa cưỡi ngựa đi.”
Quý ma ma nói: “Cơ thể công chúa là lá ngọc cành vàng, gặp ngoại thần thì trái với lễ nghĩa, không thích hợp.”
Đậu Căng vội la lên: “Lúc này chạy thoát thân quan trọng hơn, còn có thể chú ý việc này nữa ư?”
Quý ma ma lập tức nghẹn lời, trở lại bên trong xe xin chỉ thị của công chúa.
Đậu Căng sốt ruột đến mức đầu đầy mồ hôi lạnh, quay quanh xe ngựa.
Công chúa Cảnh Giai ở bên trong trầm ngâm một lát, mới đeo khăn che mặt thật dày rồi để Quý ma ma đỡ ra.
Quý ma ma nói: “Công chúa không biết cưỡi ngựa.
Xin Hòa Lam phi chăm sóc.”
“Tôi hiểu mà.” Hòa Lam đưa tay nhấc Cảnh Giai lên ngựa của mình, hét lớn một tiếng rồi dẫn đám hầu gái của mình và Đậu Căng phi nhanh về phía đông nam.
Công chúa ôm chặt lấy eo Hòa Lam, chỉ lo vùi đầu vào lưng nàng ta nhưng người vẫn không ngừng run.
Ngựa chiến nhảy lên sườn núi, trước mắt là khe núi bao la, phía sau đã truyền đến tiếng móng ngựa ầm ầm như sấm.
Hòa Lam quay đầu nhìn rồi quát: “Đi mau!”
Người Đậu Căng run như cầy sấy, vội nói: “Vâng.” Và là người đầu tiên lao xuống sườn núi.
Hầu gái A Lưu bên cạnh Hòa Lam theo sát phía sau, chạy song song với Đậu Căng, rút con mã tấu[3] từ hông ra vung về phía cổ Đậu Căng.
Ánh sáng trắng lạnh thấu xương, kèm theo đó là tiếng đứt gân gãy xương, đầu Đậu Căng bay ra cách cả trượng, đoạn thân thể còn ở giằng co trên yên một lát mới ngã xuống ngựa.
[3] Mã tấu là cách gọi của một loại gươm truyền thống, nó có hình dạng là một thanh gươm dài có độ cong vừa phải, sắc một lưỡi, đa phần là cứng chứ không mềm như kiếm, phần chuôi cầm bằng gỗ để giảm trọng lượng (khác với kiếm và đao vì hai loại này phần chuôi thường làm bằng kim loại).
Mã tấu là vũ khí tích hợp chuyên dụng của kỵ binh trong điều kiện chiến đấu trên lưng ngựa.
Do mã tấu có sóng đao khá dày và bén một lưỡi nên tăng độ cứng cho vũ khí và tăng lực chém khi kết hợp với đà phi của ngựa – chữ “mã” là để chỉ ngựa (Kỵ Binh).
Do sức sát thương cao, bền và dễ chế tạo nên mã tấu được trang bị rất phổ biến trong quân đội thời trung đại và một số đội quân hiện đại vẫn dùng để tăng khả năng chiến đấu cận chiến của bộ binh.
Hòa Lam bay nhanh tới nói: “Dẫn ngựa của anh ta theo.”
Dường như công chúa không biết đã xảy ra chuyện gì, chỉ lo ôm Hòa Lam không rời.
Hơn mười con ngựa giỏi nhiều màu không ngừng phi nhanh về chỗ sâu trong thảo nguyên.
Chốc sau mọi người đã lướt qua hai con dốc thoải, A Lưu tiến lên nói với Hòa Lam, “Phi tử, nơi này vẫn không thấy truy binh, lẽ nào sự việc có biến?”
Hòa Lam cau mày bảo: “Dẫn theo nàng ta thì sẽ phiền phức, chi bằng giải quyết tại chỗ lúc còn chưa muộn.” Đoạn xoay người lại đẩy công chúa từ trên ngựa xuống.
Công chúa thét lên một tiếng kinh hãi, lăn ra thật xa, nằm sấp tại chỗ rên rỉ không ngừng.
Đám phụ nữ người Hồ quay ngựa lại, vây quanh nàng mà cười đùa.
A Lưu ở trên ngựa nói: “Dựa vào dáng vẻ này của cô, sao xứng làm vương phi của Lương vương, còn mơ mộng muốn chèn ép quận chúa Hòa Lam của bọn tôi?”
Lúc Hòa Lam cười nhạt có sự quyến rũ động lòng người, đôi mắt long lanh màu lam sẫm ra hiệu cho A Lưu.
A Lưu bèn nhảy xuống ngựa, cầm mã tấu tới nắm lấy tóc công chúa.
Lưỡi đao sắc bén đâm vào cơ thể, máu bắn ra cực nhanh, trong nháy mắt ánh đao xuyên qua ngực A Lưu rồi đột nhiên biến mất.
Trong lúc Hòa Lam kinh hãi đã thấy công chúa bay vút lên, một thanh kiếm màu xanh nhạt vọt ra từ trong quần áo cưới hoa lệ, nhanh chóng không tiếng động, mang theo luồng khí lạnh lẽo đâm về phía Hòa Lam.
Gương mặt sau mạng che mặt giá lạnh, đen kịt đến mức trái ngược như một áng mây trắng trong bầu trời xanh vạn dặm.
“Nam…” Nửa tiếng hứt kinh hãi của Hòa Lam bị thanh kiếm đâm đứt trong cổ họng.
Thanh kiếm của chàng trai ập tới như sấm sét, trong lúc các hầu gái vẫn đang kinh ngạc đã giết liền năm người, năm hầu gái còn sót lại nhanh chóng giục ngựa chạy tan tác ra bốn phía.
Chàng trai kia tháo hũ tên đeo sau lưng xác chết xuống, bắn liền năm mũi tên, năm hầu gái theo tiếng ngã ở dưới ngựa.
Hòa Lam đang ôm cổ, nằm sấp trên ngựa hãy còn vùng vẫy, quần áo trước người đã bị máu tươi thấm ướt từ lâu.
Chàng trai kia đi tới trước ngựa của nàng ta, kéo nàng ta xuống đất.
“Lương vương còn có đôi lời nhắn nhủ tới cô.” Anh ta cúi người thong thả nói, “‘Hôm nay, cứ coi như bản vương có lỗi với cô vậy.’”
Sự cảm thán của Hòa Lam nghẹt ở trong lồng ngực, trong đôi mắt sắp tàn của nàng ta, lúc chàng thanh niên nói câu này, trên mặt dường như mang theo một vẻ buồn thảm kỳ dị đến nỗi làm Hòa Lam ảo tưởng tới tình yêu thảm thiết vô hạn của Lương vương.
Lỗ Tu nắm giữ cờ hiệu, lệnh bốn ngàn người lui lên trên con dốc thoải, nhìn từ trên cao xuống tản ra thành hình trăng non, vây quanh xe công chúa.
Tướng sĩ Lương châu giỏi kiềm dây phóng ngựa nên sắp hàng ở trước tiên, chỉ chờ mũi tên được bắn ra là thúc ngựa ra tiến vào trận địa của địch.
Quan binh Trung Nguyên theo công chúa tới có rất nhiều thị vệ trong cung hoặc người trong ty Binh mã ngũ thành, không giỏi chiến đấu trên ngựa, nhận lệnh quây xung quanh xe, lấy tịnh chế động.
Tuy chức quan của Lỗ Tu đã đến tham tướng nhưng nhiều năm nay vẫn luôn giữ chức ở ty Binh mã ngũ thành, chưa bao giờ tự mình đến sa trường nên trong lòng không có mẫu, siết đôi tay đầy mồ hôi lạnh mà nhìn thống lĩnh thị vệ Lương châu là Xích Hồ.
Xích đồ biết ý nói: “Tướng quân bày trận rất ổn thỏa, không sao cả.”
Một lát sau, luồng bụi bay phía xa đã che khuất bầu trời xông đến trước mắt, còn có một con ngựa thoát ra khỏi hàng ngữ, chạy tới trước.
Lỗ Tu nâng cao cờ lệnh, đang định phát lệnh thì Xích đồ đột nhiên lớn tiếng nói: “Tướng quân đợi đã! Thứ người kia cầm trong tay chính là cờ hiệu của Lương vương.”
“Lương vương Tất Long cung nghênh phượng giá của công chúa.” Người nọ cầm cờ màu vàng đỏ trong tay, cao giọng hét lên.
Lỗ Tu quát: “Không được cử động.
Cẩn thận có bẫy.”
“Quả thật là vương gia!” Trong đội ngũ có thị vệ của phủ Lương vương, gã trỏ vào một con ngựa giỏi màu đen dưới lá cờ lớn có chữ “Lương” phía trước, nói, “Đó là ngựa của vương gia.” Bốn ngàn người bên này mới vui mừng khôn xiết, hoan hô một hồi.
Lương vương trúng tên đã khỏi hẳn, chạy tới trước trận tựa như gió lốc, ghìm chặt đầu ngựa rồi nhanh nhẹn nhảy xuống, phủ phục ở trước xe của công chúa mà dập đầu thỉnh an: “Thần Tất Long yết kiến phượng giá của công chúa.
Công chúa cát tường như ý.”
Bên trong xe truyền đến tiếng nói bình tĩnh của công chúa: “Lương vương bận rộn việc quân mà còn rời thành ba ngày để tới gặp đã đủ để bổn cung cảm nhận được tình cảm nồng hậu của Lương vương.
Xin Lương vương hãy đứng lên.”
Lương vương đứng lên rồi lại khom người nói: “Công chúa là lá ngọc cành vàng, không ngại xa xôi vạn dặm xuất giá đến tận nơi biên cương hoang vu này, Tất Long hết sức lo sợ, cảm ta ơn rồng triều đình.”
“Lương vương nói quá lời rồi.
Lương vương trấn thủ nơi hiểm yếu, là vật báu trong số trọng thần triều đình.
Triều đình còn phải dựa vào Lương vương nhiều lắm, xin hãy giữ gìn cơ thể cao quý.”
Họ thăm hỏi nhau một cách nho nhã lễ độ.
Nếu Lương vương đã nín thinh không nhắc tới Hòa Lam thì công chúa cũng không muốn nhiều lời một chữ, ngay cả Đậu Căng cũng bị người khác quên sạch.
Công chúa bình an đến Nhạn Môn quan, chọn ngày lành làm lễ hợp cẩn[4] với Lương vương xong, tấu tạ ơn của Lương vương cũng đến kinh nội trong vài ngày nữa.
Hoàng đế biết được trong lúc gặp bọn giặc Hung Nô, Đậu Căng đã hi sinh để hộ giá thì cảm thán một hồi rồi truy phong sau khi mất thật hậu hĩ cho Đậu Căng.
[4] lễ hai vợ chồng uống chung một chén rượu trong đêm tân hôn, theo phong tục thời trước.
Còn về chuyện của Hòa Lam, Lương vương và vương phi không đề cập tới, Tịch Tà cũng không nói thì dĩ nhiên hoàng đế không thể nào biết được.
Khương Phóng không nhịn được mà hỏi Tịch Tà: “Chủ nhân cảm thấy chuyện này không cần nói với hoàng đế ạ?”
Tịch Tà nói: “Nếu công chúa đãbình yên vô sự thì chúng ta cũng không cần thiết chọc thủng chuyện xấu giữa hoàng thân quốc thích.
Còn nữa, tôi còn chưa hiểu ngọn nguồn chuyện này, nói nhiều thì không biết sẽ dẫn tới điều gì nữa.”
“Chủ nhân đang nghĩ gì vậy?”
“Lôi Kỳ Phong.” Tịch Tà chậm rãi gập điệp báo lại rồi thở dài.
Khương Phóng không khỏi ngẩn ra: “Lại là y?”
Tịch Tà chuyển điệp báo tới tay Khương Phóng và nói: “Anh xem đi.
Mười hai người chết sạch ở trong năm trượng xung quanh.
Anh tự cho là mình có thân thủ nhanh như vậy à?”
Khương Phóng vội vã xem qua một lần rồi cười khổ bảo: “Không ạ.”
“Trước có tin đồn nói Lôi Kỳ Phong là người được Hồng vương nuôi lớn, bây giờ xem, quả nhiên không sai.”
“Sao mà khẳng định được vậy ạ?”
Tịch Tà nói: “Chúng ta luôn nói thiên hạ chia năm, ngoại trừ hoàng đế ra thì bốn thân vương mỗi người chiếm một phần.
Thực ra nhìn vào tình hình hiện nay, phải nói là thiên hạ chia bốn mới phải.
Bạch Đông Lâu tự biết mình, đã nương nhờ Đông vương từ lâu, địa bàn nhà họ Đỗ chiếm là hơn nửa vùng đông nam, lúc này đang hùng hổ hăm dọa, sao lại thỏa mãn một góc đông nam cho được? Vào tháng Năm, tin tức trong phủ Lương vương nói là người mà Đông vương phái đi Lương châu chúc mừng qua lại thân mật với cô vợ bé Hòa Lam của Tất Long.
Cô gái này ở trong phủ Lương vương nổi tiếng hay ghen, cớ sao hôm mười ba tháng Sáu lại bảo vệ công chúa đến Nhạn môn? Lúc đó Lương vương biết được tin tức này sẽ nghĩ thế nào?”
Khương Phóng nói: “Vả lại Hòa Lam này là quận chúa Nguyệt Thị[5] trước đây, năm đó Lương châu quy hàng Trung Nguyên, từ đó Nguyệt Thị làm khó dễ nhiều năm, lúc này sẽ không an phận.”
[5] Tên một nước ở Tây Vực.
“Đúng vậy!” Tịch Tà nói, “Nếu công chúa chết, Lương vương và triều đình sẽ trở mặt, Nguyệt Thị lại dùng lời nói gây loạn lạc.
Hung Nô dòm ngó ở bên ngoài, Lương châu rối ren thì chắc chắn tan vỡ.
Một khi Hung Nô xuôi nam, Lương vương và triều đình ốc còn không mang nổi mình ốc, thế lực của Hồng vương rất gần Lương châu, ở