Lần xuống thăm dò hang thứ hai, Ký Linh dặn dò Bạch Lưu Song nhiều hơn. Dị Bì đã bịt lối ra khỏi hang bằng yêu pháp để bắt cá trong chậu, địch ở trong tối, ta ở ngoài sáng, phải đề phòng.
Bạch Lưu Song biết không được sơ suất nên kiên nhẫn nghe Ký Linh dông dài xong mới biến thành chùm sáng tím bay đi.
Một canh giờ sau, nàng quay về an toàn.
Lần này, nàng đã cẩn thận tìm tòi mọi góc, chỉ thiếu điều không cuốc từng tấc đất lên xem nhưng vẫn không thu hoạch được gì, không có dây thừng, cũng không có lối đi nào. Điều duy nhất đáng mừng là không gặp phải Dị Bì, hay nói cách khác, Dị Bì vẫn không biết tung tích.
Tuy nhiên, dưới góc nhìn của Bạch Lưu Song thì chẳng thà cứ để nàng gặp Dị Bì cho xong, liều mạng đánh một trận còn đỡ hơn là chịu giày vò như hiện tại.
“Dây thừng đã đứt cũng không có à? Hoặc là đã phân hủy, có khi cô không để ý?” Đàm Vân Sơn vẫn chưa chịu từ bỏ.
Bạch Lưu Song lắc đầu, phủi phủi bụi đất bám khắp mặt và cổ: “Tôi sắp cày cả mũi xuống đất rồi đấy, thực sự là chỉ có đất với đá mà thôi.”
Ký Linh ngồi xổm bên bờ vực nhìn xuống vùng đen ngòm bên dưới, lần đầu tiên cảm thấy bất lực, thở dài, ngoảnh mặt lại cười chua chát nhìn Đàm Vân Sơn đứng cách đó mấy bước: “Đừng làm khó cô ấy nữa, có lẽ đúng là trượt chân ngã xuống thật.”
Đàm Vân Sơn nhìn nàng một hồi rồi bỗng gọi: “Lại đây.”
Ký Linh ngẩn ra không nhúc nhích.
Đàm Vân Sơn chìa bàn tay không cột khăn lụa ra, vừa gọi vừa nhắc lại: “Lại đây.”
Ký Linh chán nản, lòng thầm nhủ gọi vậy là gọi cún hay sao nhưng cơ thể thì vẫn rất ngoan ngoãn nghe lời đứng dậy đi lại chỗ Đàm Vân Sơn. Nàng hất mặt lên, quyết không chịu thất thế: “Sao?”
Đàm Vân Sơn mỉm cười hết sức hài lòng: “Ngồi gần vách đá vậy làm gì, đâu phải nhìn xuống đấy nhiều thì Dị Bì sẽ trồi lên đâu. Đứng đây an toàn hơn nhiều.”
Ký Linh ngớ ra, thấy lòng mình là lạ, vừa ấm áp vừa dở khóc dở cười: “Tôi có phải trẻ ranh ba tuổi đâu, đâu đến mức bị gió thổi xuống đấy.”
“Lỡ như người bên dưới cô quạnh quá muốn kéo nàng xuống chơi cùng thì sao.” Đàm Vân Sơn thở dài tỏ cái vẻ “cô nương vẫn còn ngây thơ lắm”, “Cẩn tắc vô áy náy.”
“…” Ký Linh biết vì sao lúc nào mình cũng muốn gõ chàng rồi, bởi vì căn bản không thể nói lại nổi, phải động thủ! Tuy nhiên, trước mắt rõ ràng không phải thời điểm thích hợp để “nồi da nấu thịt”, đành nghiến răng hỏi: “Vậy xin hỏi cẩn tắc thì tiếp theo chúng ta làm gì?”
Vốn là muốn hỏi khó đối phương, không ngờ chàng lại đáp ngay: “Đứng nguyên đây đừng di chuyển, tôi đi một lát sẽ quay lại ngay.”
Nói rồi, chàng xách dao đi ngược trở ra phía ngoài hang, đi được mấy bước còn không quên quay lại dặn Phùng Bất Cơ: “Phùng huynh giúp nhìn một chút nhé, đừng để nàng tới gần vách đá ngó đầu xuống xem…”
Tiếng nói văng vẳng tắt lịm, bóng chàng cũng đã biến mất trên lối đi chật hẹp tối tăm.
Phùng Bất Cơ nhìn Ký Linh đứng cách vách núi dăm bước chân rồi lại nhìn bản thân từ nãy tới giờ đều đứng sát bên miệng vực mà thấy lòng bỗng chua chát. Song, đối diện với sự tín nhiệm của huynh đệ, huynh ta vẫn phải rưng rưng hứa hẹn: “Đàm lão đệ, cứ yên tâm giao cho tôi…”
Chữ “tôi” vừa ra khỏi miệng, trong lối vào hang bỗng vang lên mấy tiếng cạch cạch, thỉnh thoảng còn có tia lửa lóe lên, mặc dù nhìn không được rõ nhưng có thể đoán ra là do dao chém lên vách hang đá.
Ký Linh và Phùng Bất Cơ nhìn nhau, không hiểu Đàm Vân Sơn đang làm trò gì, chắc không phải là không tìm được Dị Bì nên chém dao lên vách hang cho đỡ bực chứ?
Chẳng mấy chốc, tiếng dao chém lên vách tường nhỏ dần, tất nhiên là do Đàm Vân Sơn đã đi ngày càng xa hơn. Dựa theo tốc độ này, chẳng bao lâu nữa sẽ di chuyển ra tới cửa hang.
Song, Đàm Vân Sơn chém được giữa chừng thì ngừng lại. Bởi vì cuối cùng dao cũng chém phải chỗ có đất. Gần nửa thân dao cắm ngập vào vách, không bị phản lực dội ngược lại cổ tay như khi chém vào đá.
“Ký Linh, Phùng Bất Cơ, Bạch Lưu Song, lại giúp với…”
Lúc đồng đội cần che chở thì Đàm nhị thiếu gia che chở, tới lúc cần dùng tới sức lao động thì chàng cũng rất nghiêm túc nhờ cậy.
Ba tên đội hữu nghe vậy tức tốc phi tới. Chuông Tịnh Yêu, kiếm gỗ đào, móng vuốt sói nhất tề xông trận, cộng thêm cả dao của Đàm Vân Sơn, đào ra một cái hang to trên vách tường.
Nói là đào ra một cái hang cũng không được chuẩn xác bởi vì ở đó vốn là một cái cửa hang nhưng bị người ta lấy đất trét lại, đất bản địa của Hoàng Châu có độ kết dính cao, lấy đắp tường thì chẳng khác gì một khối đá, song nếu dùng dao chém thì sẽ thấy mềm. Hơn nữa, người đắp bức tường này có vẻ cũng không định bịt chết cửa hang, tường đắp không dày, dù chỉ đào một mình thì cũng không mất nhiều thời gian.
Tuy nhiên, khả năng ngụy trang của bức tường này lại rất mạnh… Trong hang động tối tăm, đất trộn với vôi sống trông chẳng khác gì vách đá của hang, dù có cầm đuốc soi cũng khó lòng phân biệt nổi.
“Sao biết ở đây có đường?” Bạch Lưu Song nghĩ mãi không hiểu, tâm trạng khá là phức tạp, “Biết có đường mà còn bắt tôi chạy lung tung ở dưới đó!”
Không đợi Đàm Vân Sơn trả lời, Ký Linh đã giữ vai nàng ấy lại: “Chính bởi cô vất vả ở dưới đấy nên huynh ấy mới hoàn toàn hết hy vọng sau đó đổi suy đoán theo hướng khác.”
Bạch Lưu Song nửa tin nửa ngờ, nheo mắt nhìn Đàm Vân Sơn.
Đàm Vân Sơn cười vô tội: “Nói đoán còn là dễ nghe, thực ra là làm bừa thôi. Tôi cho là một chỗ rộng thế này chắc không chỉ có mình bờ vực. Với cả mấy bộ xương bên dưới nằm rải rác chứ không dồn một chỗ, nếu nói là trượt chân ngã xuống vực thì quá gượng ép.”
Bạch Lưu Song nhíu mày: “Nói tới nói lui toàn là tự đoán, nếu đoán sai thì sao?”
Đàm Vân Sơn thở dài: “Vậy thì đành phải ra tay với bức tường yêu bịt cửa hang. Có bắt được Dị Bì hay không cũng chẳng sao nhưng không thể bị nhốt chết ở đây được.”
Bạch Lưu Song nghĩ tới bức tường yêu làm phép màu tím đen phá mãi không được kia, liếc nhìn chàng không lấy gì làm tin tưởng: “Nếu phá được thì nãy đã phá rồi.”
Đàm Vân Sơn hờ hững nhìn lại, đôi mắt ánh lên sự tự tin: “Vừa rồi không phá được không có nghĩa là mãi mãi không phá được. Trên đời này không có việc nào là kín kẽ không chỗ hở, chỉ phải xem xem là có chịu bỏ thời gian công sức để xem xét hay không mà thôi.”
Bạch Lưu Song bình tĩnh quan sát chàng một hồi rồi lại nghĩ tới những vấp ngã của bản thân, cuối cùng tin.
Nếu “quỷ kế đa đoan” là một phép tu hành thì, nàng nghĩ, Đàm Vân Sơn không cần phải bắt yêu thú làm gì nữa bởi đã đủ giỏi để thăng tiên luôn rồi. Hơn nữa, điểm mạnh nhất của người này là không biết thế nào là “hết cách”, thế nào là “tuyệt cảnh”, dẫn tới cũng rất hiếm khi sa vào những cảm xúc tiêu cực như “thất bại”, càng khỏi nói tới “cam chịu”. Chiêu một không được thì nghĩ chiêu hai, nhiều chiêu đều không được thì lùi lại tự bảo vệ mình. Tóm lại luôn có cách để bản thân thấy dễ chịu. Theo một nghĩa nào đó thì người như thế quả thực vô địch.
“Đây là gì?” Mọi người đi vào trong chiếc hang mới đào ra, Phùng Bất Cơ đi sau cùng phát hiện có thứ gì đó hơi vàng vàng dưới chân. Huynh ta tò mò cúi xuống bới đất ra, thì ra là một lá bùa phép!
Ba đồng đội lũ lượt quay đầu lại xem, không khỏi kinh ngạc khi chứng kiến huynh ta nhặt lá bùa đứng dậy.
Chưa ai kịp hỏi gì, lá bùa vùi dưới đất vốn lành lặn sạch sẽ tới độ không giống như được chôn trong tường đất bỗng bốc cháy. Phùng Bất Cơ giật mình thả tay ra, lá bùa đang cháy rơi xuống rồi tắt ngúm, chỉ còn để lại một nhúm tro tàn.
Đàm Vân Sơn không hiểu nhưng Ký Linh hiểu.
Người phàm bắt yêu có các phái khác nhau. Như nàng và Phùng Bất Cơ là theo phái phổ biến nhất “pháp khí là chính, võ nghệ là phụ”. Cách này dù đơn giản sơ sài nhưng dễ hiểu dễ học, dù là một thanh kiếm gỗ đào tự chế như của Phùng Bất Cơ cũng có thể đại sát tứ phương. Ngoài cách dễ học thì còn có cách khó học, có cách đơn giản thì cũng có cách phức tạp, ví dụ như “thuật bùa chú”.
Nàng và Phùng Bất Cơ đã từng vẽ “trấn yêu phù”, nếu phân loại một cách nghiêm ngặt thì đấy cũng được coi là “thuật bùa chú” nhưng những “thuật bùa chú” như vậy thì nhan nhản trên giang hồ. “Thuật bùa chú” chân chính uyên thâm bác học chỉ bí mật lưu truyền trong một nhóm thiểu số người. Điều này cũng làm cho những người bắt yêu dùng thuật bùa chú trở thành nhánh đặc biệt nhất trên giang hồ, dù số lượng không đông đảo nhưng hễ đã ra tay thì nhất định làm người ta phải tò mò vây xem tìm tòi nghiên cứu.
“Giờ vẫn còn người dùng thuật bùa chú à?” Bạch Lưu Song cũng biết thứ này nhưng lần gần nhất thấy thợ bắt yêu dùng thuật bùa chú ở Bạch Quỷ Sơn phải cỡ trăm năm trước. Nàng ta cứ nghĩ thuật này ngoại trừ trấn yêu phù thì những thứ còn lại đều đã thất truyền.
“Có,” Ký Linh đáp ngắn gọn, “chẳng qua rất hiếm.”
Phùng Bất Cơ chỉ bận tâm suy nghĩ một chuyện: “Có thợ bắt yêu dùng thuật bùa chú từng tới đây và còn xây nên bức tường này.”
Đàm Vân Sơn nghe đến đây thì đã hiểu. Chàng không biết thuật bùa chú là gì nhưng qua tên gọi và dăm ba câu các đội hữu trao đổi với nhau thì cũng đã hiểu được đại khái là một cách bắt yêu, điều chàng quan tâm là: “Lá bùa này chôn trong tường nhằm tác dụng gì?”
Phùng Bất Cơ nói: “Phòng yêu. Bùa chôn trong tường không ảnh hưởng gì tới con người nhưng yêu thì không thể tới gần, càng không thể xô đổ.”
“Chẳng lẽ tường này là để ngăn cản Dị Bị?” Bạch Lưu Song nghĩ gì thường nói ngay chứ không cân nhắc kỹ, nói xong thấy không đúng lại bổ sung, “Không đúng, Dị Bì muốn ra thì bay thẳng lên chỗ vách đá là ra, có phải đồ ngu đâu mà cứ nhất định phải tìm đường.”
Ba