Mọi người đều cảm thấy hành tung của Triệu Lão Biệt rất quái dị, khó mà biết lão là ma hay yêu quái, bao quanh lão là vô vàn ẩn số, không ai có thể đoán chính xác được rốt cuộc là gì nên đành chờ lão tự kể ra.
Tư Mã Khôi hỏi Triệu Lão Biệt: “Tự lão thừa nhận mình đã chết trong sa mạc Lâu Lan từ những năm Dân quốc 15, thế bây giờ lão là người hay ma?”
Triệu Lão Biệt sa sầm nét mặt, lão không muốn bị người khác lật tẩy chân tướng, nhưng lão cũng biết trò đãi bôi ba câu sáu điều khó mà qua mắt được Tư Mã Khôi, nên lão đành khai ra nguyên nhân của sự việc:
Trước khi Triệu Lão Biệt cùng hội người Pháp xuất phát vào sa mạc Lâu Lan, lão đã về Quan Đông một chuyến, mang đổi tất cả của cải tích cóp bấy lâu thành vàng, rồi đánh thành từng thỏi, tìm một nơi vắng vẻ giấu thật kỹ.
Khi ấy vừa đúng lúc Quan Nội họp chợ phiên, tuy ở đây không sầm uất như những đô thị lớn, nhưng nơi này là địa bàn xung yếu của các đoàn thương nhân vùng tây bắc, người đi chợ nườm nượp, phiên chợ đông đúc bán ti tỉ thứ, lớn bé đều có cả, lớn thì có gia súc cỡ ngựa, lạc đà; bé thì có gương lược, cây kim, sợi chỉ. Người ta bán đủ thứ từ tạp hóa, thuốc bôi, ống da, sừng bò, cho tới roi ngựa, mã tấu, yên cương ngựa, hơn nữa ở đó người ta còn bày trò diễn ảo thuật mãi võ. Đến các sạp ở ngoài cổng Quan Nội, người ta lại bày bán đủ các loại hàng ăn, quán xá lô xô, san sát nhau. Đúng là náo nhiệt vô cùng!
Triệu Lão Biệt thấy trời hãy còn sớm, nên lão rẽ vào phiên chợ ngó nghiêng mỗi chỗ một tí. Lão là người xuất thân bần hàn, nên chẳng bao giờ dám móc tiền túi ra tiêu, có đi chơi chợ, lão cũng chỉ ngắm nghía cho thích mắt chứ không dám mua gì. Cứ như vậy, lão loanh quanh hết một ngày mà vẫn chưa chán, hôm sau lão lại ra chợ xem, thấy phía trước người ta xúm đông xúm đỏ, lão cứ tưởng có trò gì hay, nên cũng cố chen chúc vào “giải ngố” cho bằng được.
“Giải ngố” là tiếng địa phương vùng Quan Đông, ý muốn chỉ việc xúm vào xem hôi, vừa không mất tiền lại vừa giải sầu. Triệu Lão Biệt rất giỏi trò này, lão cố sống cố chết len cho bằng được lên hàng đầu, ngồi xổm trên mặt đất, chăm chú quan sát, thì ra nhân vật chính là một vị thầy bói tuổi ngoại tứ tuần, vẻ ngoài trắng trẻo, sạch sẽ, thân hình khá phốp pháp, trên sống mũi còn gá thêm cặp kính cận, cách ăn vận khá giống giới văn sĩ bụng nhét đầy chữ.
Thầy bói đó ngồi trên một tảng đá, phía trước là miếng gỗ dài, bày xếp ngay ngắn những giấy bút, ống mực, hộp trốc, phía sau cắm lá cờ hiệu quảng cáo, trên đó vẽ hình bát quái, hai mặt viết hai hàng chữ “Thiết Chủy bán tiên, xem tướng phán mệnh.”
Vị thầy bói này hành tẩu trên giang hồ cũng đã lâu, lại rất biết cách làm hàng, học rộng biết nhiều và đặc biệt có tài ăn nói. Anh ta không ngồi đờ ra như cá chết, im lìm sau sạp hàng, mà trước tiên anh ta kể chuyện, người qua đường vừa nghe là dính vào luôn, người xúm đến xem càng lúc càng đông, cứ như vậy anh ta chẳng lo không có khách tự nguyện chui đầu vào rọ.
Vị thầy bói tự xưng mình họ Hồ, quê ở Tế Nam, tỉnh Sơn Đông, dân giang hồ gọi anh ta là Hồ Thiết Chủy – Thiết Chủy nghĩa là “miệng sắt” – ý muốn ám chỉ anh ta xem tướng đoán số chính xác như thần, chưa bao giờ nói sai nửa lời. Anh ta lấy hết sức đập miếng gỗ trên bàn, rồi lặng thinh tạo khí thế, sau đó mới đằng hắng mở màn: “Chư vị lão gia, đừng thấy cái này trông có vẻ tầm thường mà coi thường, thực ra nó có lai lịch hẳn hoi đấy. Người xưa dạy ‘Một thỏi thước gỗ chia bảy phần, thượng chí quân vương hạ chí thần, quân vương một mảnh trị quan nhân, quan nhân một mảnh trị lê dân, thánh nhân một mảnh truyền Nho giáo, thiên sư một mảnh trấn quỷ tà, sư gia một mảnh tuyên Phật pháp, Đạo gia một mảnh thuyết huyền môn, một mảnh lưu lạc chốn nhân gian, trôi nổi tám phương khuyên dân chúng’.
Triệu Lão Biệt thấy lời ăn tiếng nói của vị thầy bói này khá mạnh miệng, khiến người ta chỉ muốn nghe tiếp xem anh ta nói gì, thế là lão ngồi xổm xuống đất, không bỏ đi nữa.
Lão thấy vị thầy bói “miệng sắt” kia tiếp tục sang sảng: “Hồ mỗ đây lần đầu đến nơi đất quý này, theo lệ phải tự báo gia môn trước. Mỗ là hậu duệ đời thứ 72 của Hồ lão chân quân, theo dòng tướng pháp Ma Y, sở trường xem tướng xem tay, xem từ da xuyên thấu đến tận cốt xương, phân biệt nguyên thần, từ đó có thể phán đoán được phúc, thọ, phú, bần và cả mệnh lý sinh tử”.
Nói xong, vị thầy bói rút ra một tập tranh phác họa chân dung của các nhân vật lịch sử. Anh ta giở đến một trang rồi giơ ra cho mọi người xem, trang đó vẽ Đại Minh Hồng Vũ hoàng đế Chu Nguyên Chương, bản vẽ này phỏng tác theo bức vẽ nguyên mẫu ở Minh Cung, bên cạnh còn chú thích sinh thần bát quái, đôi mắt của hoàng đế trong bức họa có mí trên ngắn, mí dưới dài, lỗ tai to hướng lên trên, lỗ mũi hở và hếch, cằm cũng hướng lên trên. Trong tướng sổ, tướng này gọi là “Ngũ lộ hướng thiên(l), địa cách(2) thoáng rộng”.
1 Ngũ lộ hướng thiên: chỉ hai lỗ tai, hai lỗ mũi và miệng hếch lên trời.
2 Địa cách: chỉ cằm.
Hồ Thiết Chủy chỉ tay vào bức họa, miệng thao thao bất tuyệt, khoe sư tổ của mình trước đây từng phán mệnh cho hoàng đế Chu Nguyên Chương, sinh thần bát tự của ngài quá rắn, nếu không gặp thời thì chỉ thành kẻ ăn mày nơi đầu đường xó chợ, nhưng một khi đã gặp thời thì lập tức trở thành thiên tử. Ngài vừa sinh ra đã biết nói, nhưng gọi cha cha chết, gọi mẹ mẹ chết, chỉ tại cha mẹ ngài mệnh mỏng, không chịu đựng được lời vàng tiếng ngọc của bậc chân mệnh thiên tử.
Hồ Thiết Chủy nói xong về tướng mệnh của hoàng đế Chu Nguyên Chương, lại tiếp tục bình đến cuộc đời của Đường Thái Tông. Trong lúc kể sự tích của những vĩ nhân thời cổ, anh ta còn chỉ tướng số ngũ quan của đám đông vây quanh, rồi luận sang hèn, hên xui, ví như người này làm nghề gì, người kia nhà có mấy người, có con trai con gái hay không, gần đây có vào vận không. Mà hay một nỗi, tất cả lời phán của anh ta đều chính xác tuyệt đối, ai nấy cứ gọi là gật gù khen chuẩn lia lịa.
Chuyện đời thường chỉ thích đàm luận những việc kỳ lạ, ở chợ lại toàn hạng người thô lỗ, ít học, thấy Hồ Thiết Chủy nói càng giật gân, khoa trương, mọi người lại càng xúm đông xúm đỏ đến xem.
Hồ Thiết Chủy thấy đám đông đã kha khá, mới bắt đầu vào chủ đề chính: “Từ trước đến giờ, mỗ thu mỗi quẻ nửa đồng Đại Dương, nhưng hôm nay là lần đầu tiên đến đây, lại được các vị cổ vũ như vậy, thôi thì mỗ cũng học theo Trương thiên sư bán thuốc mắt, buông tay lấy cái tiếng là chính, chỉ thu nửa giá thôi, không những vậy còn mua một quẻ, tặng một quẻ, nếu nói sai một câu, nửa xu mỗ cũng không dám lấy…”
Nào ngờ, đúng lúc đó một trận cuồng phong chợt nổi lên, cuốn đất cát bay tứ tung, đám đông chạy tán loạn. Hồ Thiết Chủy bán nước bọt suốt nửa ngày trời, đến lúc sắp kiếm được tiền thì chẳng còn mống người nào, anh ta không kìm được tiếng thở dài, đành dọn hàng tránh tạm vào trong quán trọ ngay phía sau. Triệu Lão Biệt cũng ngồi xổm ở ngay cửa quán trọ, rút tẩu thuốc ra hút đợi ngớt bão cát, mới dám đi.
Hồ Thiết Chủy hụt mất vụ làm ăn, thì không cam tâm, anh ta liếc mắt thấy Triệu Lão Biệt đứng ngay cạnh, liền nảy ra ý dụ Triệu Lão Biệt mở hàng. Anh ta mon men lại gần mời chào: “Mỗ thấy lão nông đây ngũ quan cân đối, chẳng hay có muốn để Hồ mỗ coi cho quẻ bói xem vận may thế nào không?”
Triệu Lão Biệt thấy Hồ Thiết Chủy còn không tính được trời sắp nổi bão, thì làm sao lão dám tin vào mấy trò giang hồ này của anh ta, huống hồ cho dù anh ta có đạt đến trình độ một nửa thần tiên thật, thì lão cũng không nỡ rút nửa đồng Đại Dương ra để xem tướng, bởi thế lão chỉ tảng lờ lắc đầu.
Hồ Thiết Chủy giải thích: “Có câu rất hay ‘Trời có lúc nổi gió bất thường, người có lúc họa phúc khôn lường’ , Tướng pháp Ma Y của Hồ mỗ chỉ xem được cho con người, chỉ đoán được họa phúc khôn lường của con người, chứ không xem được sắc mặt của ông trời. Nếu lão huynh không tin, thì mỗ đây cứ xem tướng cho lão huynh, luận đàm tam bộ đại vận gồm tiền vận, trung vận và hậu vận, nếu nói chuẩn thì đến