Sáng sớm, lão Trình ở đầu thôn thức dậy.
Lão rón rén đẩy cửa, sợ làm kinh động đến người vợ bụng mang dạ chửa đang ngủ trong căn nhà tồi tàn kia.
Lão đi ra sau nhà lấy cuốc, đội cái mũ lá che hết khuôn mặt rồi ra đến cổng.
Lão đẩy cái hàng rào cũng không biết làm từ cây gì, cẩn thận gài lại sau đó hòa vào dòng người trên con đường nhỏ mất hút.
Đại khái thì đây là một khu làng.
Vợ lão Trình ngủ dậy thì cẩn thận xuống giường, làm mấy công việc vặt vãnh trong nhà rồi bày rổ rá ra cái chõng trước nhà đặt dưới gốc cây to nhất trong làng khâu tiếp mấy mảnh vải.
Vải vóc khâu cho trẻ con cũng chẳng ra làm sao hết, toàn là vải thô nhưng hẳn nhiên, nhìn từ căn nhà nền đất đơn sơ, quét mắt đã thấy cả gian phòng chỉ có bàn với giường thì mớ vải ấy đã xem như quý báu lắm rồi.
Vợ lão Trình xâu sợi chỉ qua cây kim, xâu mấy lần đều không được nhưng trông bà chẳng có vẻ gì là sốt ruột cả.
Thậm chí khi đánh rơi cây kim xuống đất, bà cũng chỉ a, a mấy tiếng rồi cúi người nhìn, một tay chạm đất sờ so.ạng, tay kia lại che vào chỗ bụng tiếp xúc với cái chõng.
Mãi đến lúc bị kim đâm, bà Trình "á" một tiếng rồi vui vẻ lấy móng tay cạy cả đất cát và chiếc kim lên sau đó mới phủi phủi bàn tay mò kim đó lên chiếc váy vải nâu cũ kỹ rồi vén mái tóc ra sau tai, tiếp tục luồn kim.
Hành động của bà hệt như một thiếu nữ.
Mà vợ lão Trình quả là một thiếu nữ thật, chỉ là làn da nhăn nheo, dáng người thấp bé, đi đứng còn còng lưng xuống nên thoạt nhìn mới trông giống như một bà lão.
Trên mỗi tấm vải nâu, nàng đều dùng chỉ xanh thêu một chiếc lá kèm theo dây quấn, mặc dù có hơi xấu xí nhưng vẫn nhìn ra có vài phần giống với lá của cây cổ thụ đang che mát cho chiếc chõng.
Đến trưa, cũng không biết là giờ gì, khi mùi khô mặn bay bay trong gió thì lão Trình vác cuốc về đến.
Cũng như vợ mình, lão Trình thật ra cũng còn trẻ nhưng thoạt trông lại chẳng khác gì lão già da nhăn lưng còng.
Lão cười hề hề chào tạm biệt người cùng làng rồi đẩy cửa bước vào, đi đến dưới gốc cây.
Vợ lão Trình nghe tiếng động thì ngẩng đầu lên, nở nụ cười chào đón lão.
Mà trên khuôn mặt của nàng chỉ có một cái lỗ đen sâu hoắm ngoác ra.
Nơi vốn dĩ thuộc về đôi mắt lại chỉ là một đường thẳng hi hí, chỗ cái mũi chỉ có hai cái lỗ nhỏ.
Một khuôn mặt quái dị, biến dạng mà bất kỳ ai trông thấy cũng phải sợ hãi, chưa lùi mấy bước rồi té phịch xuống đất thì chắc chắn là đã chết cứng tại chỗ rồi.
Ấy vậy mà lão Trình không hề tỏ vẻ gì cả, lão cười hề hề chỉ vào mấy mảnh vải quý báu chỉ to bằng lòng bàn tay đó, vợ lão Trình biết ý chồng, gật gật mấy cái.
Sau đó, lão ngước đầu lên nhìn tán cây.
Bấy giờ khuôn mặt lão cũng hiện ra rõ ràng: Cũng là hai cái khe chỗ con mắt và hai lỗ nhỏ thay chiếc mũi cùng một cái hố đen ngòm thế chỗ miệng.
Lão nói với tán cây: "Không dám xin phù hộ đứa trẻ toàn vẹn chỉ mong con trẻ bình an."
Lão thì thầm nhưng lời nói lưu loát, không giống như vợ lão Trình thích a, a, gật, gật thay cho lời nói.
Thật ra vợ lão Trình cũng có thể nói, chỉ là thanh âm không được trọn vẹn lại còn mất thời gian để nghĩ từ thành ra mới thích ra dấu như vậy.
Bây giờ nghe lão Trình khấn như vậy thì cũng cố gắng nói ra mấy chữ: "Xin, phù, hộ."
Bọn họ nói năng chẳng có đầu đuôi, không biết là xin thần nào phù hộ mình.
Cơ mà vốn trong ý thức của họ, từ lúc sinh ra đã chẳng tồn tại bất kỳ khái niệm nào về thần sông ngòi, núi non hay đất đai để dựa dẫm tinh thần.
Họ chỉ biết đến vị thần nơi cây cổ thụ hệt như tổ tiên hiền hòa ở bên trông coi con cháu tồn tại ở vùng đất này.
Là vị thần duy nhất của thế gian.
Ngày vợ lão Trình lâm bồn, cả làng tập trung trước nhà cổ vũ, ai nấy cũng muốn nhìn thấy sinh mệnh bé bỏng ra đời.
Họ đứng trật tự dưới tán cây cầu xin vị thần duy nhất của thế gian.
Giọng của ai cũng khó nghe, không biết là khẩu âm hay do cuống họng bị thương.
Giá mà thần có bị họ làm cho cảm động thì cũng chưa chắc nghe hiểu bọn xin cái gì mà ban phép.
Đến khi bọn họ ngẩng đầu lên, dung mạo hiện rõ ra mới hay lão Trình và vợ đã xem như bình thường lắm rồi.
Nhìn bọn họ thật khó phân nam nữ, chỉ biết dựa vào cảm giác mà đoán.
Trên khuôn mặt ai nấy cũng kỳ dị, có người ngay cả khe ở mắt cũng chẳng có, chỉ có một đường như sợi chỉ vắt ngang, có người chẳng có mũi, có người giữa lỗ miệng sâu hoắm mọc độc chiếc răng, có người vai lệch hẳn một bên, có người đầu chẳng có nổi một cọng tóc.
Da dẻ ai nấy cũng nhăn nhúm dúm dó.
Đúng là dọa người mà.
Nhưng không hiểu sao nhìn bọn họ chẳng ai tự ti hay than vãn.
Có lẽ vì bọn họ không tự biết mình quái dị, có khi ở đây ai cũng quái dị nên bọn họ chẳng tự ti, hay là bọn họ biết than vãn cũng chẳng có ích gì.
Trong bọn họ chỉ có sự háo hức đợi chờ và hy vọng.
Mãi đến khi tiếng trẻ con oe oe cất lên, bọn họ mới thôi cúi đầu.
Nếu bọn họ có một đôi mắt bình thường thì chắc đôi mắt ấy đã hấp háy cả lên vì phấn khởi.
Lão Trình bước ra ngoài, ẵm đứa bé đến dưới gốc cây.
Cả làng xúm lại nhìn mặt đứa trẻ.
Da dẻ nó nhăn nheo, không biết vì giống mẹ cha hay do trẻ con mới sinh đều vậy.
Trên khuôn mặt nó là một bờ môi hơi mỏng, cái mũi tẹt thật thấp cứ như cào bằng với khuôn mặt vậy.
Mà ở chỗ đôi mắt là hai lỗ tròn, không có mày, không có hốc mắt, chỉ đơn thuần là cái lỗ tròn mà thôi.
Nhìn cũng kỳ dị lắm nhưng nếu phải so sánh với đám người