Edit: Yunchan
Mây mù bềnh bồng che mờ ánh trăng lúc sáng lúc tối, công tử bạch y không dám quay đầu, con ngươi liếc sang bên trông thấy góc lam bào thì biết mình bị ai khống chế, lập tức bật ra tiếng cười khẩy: “Bần đạo chẳng qua chỉ rảnh rỗi bắn một cây pháo hoa, mà phải dùng tới hậu đãi thế này sao?”
“Bắn pháo hoa?” Kinh Niên đi vài bước nhặt xác pháo rỗng trên đất, giơ tay soi dưới ánh trăng ngắm nghía, rồi đi tới bên cạnh Gia Cát Thủ ngồi xổm xuống, đong đưa xác pháo ở trước mặt hắn: “Phát pháo hoa này… nhìn thế nào cũng giống như là tín tử báo tin thông phong, còn nữa…”
Đoạn rút tẩu thuốc trong tay hắn kề lên mũi hít hít, tiện tay đặt ở bên chân, rồi ôm đầu gối nghiêng đầu cười rộ lên: “Đạo gia ngài là một người nghiện thuốc à, thật không hiểu nổi luật giới thanh tu của đạo sĩ quy định thế nào nữa.”
Gia Cát Thủ tức thì đỏ mặt, lặng thinh hồi lâu mới lắp bắp phản vấn: “Có… có… có quy tắc nào nói đạo sĩ không thể hút thuốc?”
Kinh Niên “À” một tiếng, nhấc khuỷu tay đỡ cằm: “Vậy là Kinh Niên quê mùa thiển cận rồi, có điều, đạo gia này, ngài theo ta hoài làm chi thế?”
Gia Cát Thủ nghe vậy thì phun nước miếng nói: “Ai theo cô?! Chẳng qua là bị họ Lô đeo một mạch tới đây, lại trùng hợp đụng phải cô mà thôi!”
“Ợ… là trùng hợp sao? Trùng hợp từ thành Phú Quý tới trấn Mai Lĩnh rồi tới tận nơi này à?”
“Thành Phú Quý gì hả? Bần đạo không biết, nếu không phải vì bát quái Thái Hư cảm ứng được âm khí thì sẽ không xui xẻo đụng phải cô!”
Kinh Niên cười ha hả, ngón trỏ chọc chọc trán y: “Ta vì ngài nên mới chọn đi đường núi hẻo lánh, để cho ngài xuất hiện thuận lợi trôi chảy, đỡ phải trốn chui trốn nhủi ở sau lưng người ta, sao nào? Không phải ngài theo đuôi từ trong thành ra tới ngoài thành sao? Đạo! Gia! Có lẽ ta nên gọi ngài là sư phụ thủ sơn mới đúng?”
Nghe thấy bốn chữ cuối cùng Gia Cát Thủ hệt như bị nện cho một đòn trời giáng, sắc mặt thay đổi đột ngột, giọt mồ hôi to tướng chảy từ trán xuống gò má, đôi môi khép mở mấy lần, rốt cuộc cũng nặn ra được một câu trọn vẹn: “Cô… cô biết từ khi nào?”
“Ngài muốn hỏi chuyện ta phát hiện ngài theo dõi ta, hay là chuyện phát hiện ra thân phận của ngài?” Kinh Niên thưởng thức sắc mặt trắng xanh hỗn tạp của hắn, khuôn mặt hớn hở thể hiện rõ tâm trạng hết sức sung sướng của cô lúc này. Chỉ thấy cô đứng lên đảo vòng quanh Gia Cát Thủ, vừa đi vừa nói:
“Công phu đổi giọng của đạo gia ngài đúng là nhất hạng. Mới đầu Kinh Niên chỉ biết ngài bám theo sau lưng thôi, ai mà nghĩ tới chuyện đặt một tiểu đạo sĩ với một lão đầu cùng một chỗ chứ? Muốn trách là trách ngài nghiện thuốc khó bỏ, người lúc nào cũng bốc mùi thuốc lá. Mùi này rất giống với mùi bay ra từ căn nhà cỏ lúc ta đưa Thi công tử lên núi. Mà một tiểu thiếu niên thì tội gì xông vào chỗ các cụ chứ? Cho nên ta đoán sư phụ thủ sơn thật sự là một vị sư phụ già, trên đường ngài làm nhiệm vụ không thể để người ngoài phát hiện nên mới đổi giọng, đạo gia, ngài nói thử xem ta đoán đúng mấy phần?”
Gia Cát Thủ hừ một tiếng, lấy lại nét mặt nặng nề lạnh lẽo, mở miệng nói: “Đúng một nửa, sư phụ thủ sơn tuổi không phải nhỏ, nhưng bần đạo cần gì phải đổi giọng chứ. Hôm ấy người nói chuyện với cô quả thật là lão tiên sinh kia, chẳng qua là trong căn nhà cỏ đó không phải chỉ có một mình lão.”
Kinh Niên có hơi kinh ngạc, hôm ấy cô nhìn qua lỗ hổng vào trong, tuy không thấy rõ, nhưng nhất định là có người, chẳng qua là không ngờ lại có tới hai người bên trong. Nói cách khác, người nói chuyện với cô chính là lão sư phụ, còn người hút thuốc bên trong chính là Gia Cát Thủ? Lúc đó cô chỉ cảm thấy một lão sư phụ hút thuốc thì không có gì không hợp, nào ngờ lại là một tên thiếu niên thích tỏ ra từng trải.
“Được rồi, đạo gia, coi như Kinh Niên chỉ đoán đúng năm phần, tạm thời không hỏi ngài chạy vào nhà cỏ làm chi, ta chỉ muốn biết ngài bám theo ta cả quãng đường để làm gì? Là ai sai ngài làm vậy?”
Gia Cát Thủ dời mắt nhìn đất, đôi môi khép chặt, không ừ hử tiếng nào. Kinh Niên nhìn cái dáng câm như hến không đánh thì không hé răng của hắn, bèn dạo một vòng ra sau lưng hắn một quãng không xa, mắt lóe lên hàn quang: “Ban đầu ta thấy ngài không có ác ý gì, theo thì theo thôi, nhưng nếu mặc cho ngài phóng hỏa tín, thì khó đảm bảo mai sau không đưa tới phiền phức, ngài cũng không chịu nói thật, vậy ta đành phải kết liễu ngài tại đây thôi! Ngũ gia!!”
Cô hét lớn một tiếng, Thi Ngũ gia tức khắc giơ tay còn lại lên, bốn ngón tay khép lại thành hình dao đâm thẳng tới giữa lưng Gia Cát Thủ.
Diễn biến sau đó xảy ra chớp nhoáng, một bóng đen thình lình vọt lên từ dưới đê, vung cánh tay ngăn đường đâm của Thi Ngũ gia, đoạn lật người vỗ lên cổ tay đang khóa Gia Cát Thủ. Thi Ngũ gia thu tay lại phá mấy chiêu của người kia, rồi cấp tốc lùi ra phía sau Kinh Niên. Bóng đen đứng trước người Gia Cát Thủ, khoác võ bào đen tuyền, đầu đội màn che bằng hắc sa, che kín toàn bộ gương mặt.
“Huyền Ảnh! Là ngươi!” Kinh Niên ngẩn người, nhìn về phía Gia Cát Thủ đang ngồi sau lưng hắn: “Hắn là người của Điện hạ?”
Huyền Ảnh khẽ gật đầu, hai tay ôm quyền hành lễ: “Gia Cát đại nhân phụng mệnh hành sự, xin Mục ngự quan thủ hạ lưu tình.” Giọng phát ra khàn khàn như bị đá sỏi mài, nghe vào tai khiến toàn thân người ta khó chịu như bị cát chà qua.
Kinh Niên cau mày nói: “Ngươi ở đây, sao không thấy Điện hạ… Ngài ấy không đi cùng ngươi sao?” Kể từ khi ra bến tàu đã phát hiện bị người theo dõi, không ngờ đó lại là Huyền Ảnh. Hắn tới sớm hơn Gia Cát Thủ, còn núp suốt trong bóng tối, cô không thấy được người nên cũng không tiện manh động, trong lòng nhận định là đồng bọn được đạo sĩ đưa tới… quả nhiên không sai. Nhưng Gia Cát Thủ còn dễ xử, còn Huyền Ảnh lại là một nhân vật gai góc, lúc này còn chưa xác định được họ là địch hay bạn, nên Kinh Niên không dám lơi lỏng đề phòng.
“Điện hạ hiện đang qua đêm trong phủ của Huyện thái gia.” Giọng điệu Huyền Ảnh cung kính, không có dấu hiệu nào là muốn gây chuyện với cô.
Kinh Niên thoáng an tâm, thấy Gia Cát Thủ bò dậy, bèn cười nói: “Đạo gia, mạo phạm.” Cô cũng không có ý định lấy mạng người ta, mà chỉ muốn hù hắn sợ thôi, lúc nãy dù Huyền Ảnh không ra mặt thì cô cũng sẽ lệnh Thi Ngũ gia ngừng tay đúng lúc.
Gia Cát Thủ hừ một tiếng không đếm xỉa tới cô, muốn giở ra tư thế thanh cao, nhưng khổ nỗi hai chân tê dại, đành phải kéo một cánh tay của Huyền Ảnh để giữ thăng bằng.
Kinh Niên đưa mắt chuyển qua Huyền Ảnh: “Điện hạ tới để bắt ta về triều hỏi tội sao?”
Huyền Ảnh không đáp một lời, Kinh Niên nghiêng đầu cười buồn: “Quên đi, hỏi ngươi cũng như không hỏi, bây giờ muốn sao đây? Bắt ta tới chỗ Điện hạ à?”
“Huyền Ảnh không dám.” Huyền Ảnh lùi một bước: “Huyền Ảnh được Điện hạ ủy thác âm thầm bảo vệ Mục ngự quan và Gia Cát đại nhân, không hơn.”
“Hừ… ta mà cần tới ngươi bảo vệ à? Quản kỹ đạo sĩ kia là được rồi!” Kinh Niên phất tay áo đi về hướng cổng thành, gương mặt đã quen vui cười giờ lại thay bằng vẻ không vui. Đi chưa được bao xa thì bỗng dừng bước, quay người nhìn về phía Huyền Ảnh: “Theo ta về khách điếm, tìm một phòng nghỉ tạm!”
Huyền Ảnh ngẩng đầu, trầm mặc một lúc lâu, rồi thấp giọng đáp: “Ý tốt của Mục Ngự quan Huyền Ảnh xin nhận tấm lòng.”
Kinh Niên hình như đã đoán trước là hắn sẽ nói như vậy, lầu bầu một tiếng “Phải không.” Rồi dẫn Thi Ngũ gia vào thành mà chẳng buồn ngoảnh đầu lại.
Bấy giờ Gia Cát Thủ mới lên tiếng: “Huyền Ảnh hộ vệ, ngươi với cô ta quan hệ rất tốt sao? Thấy cô ta rất quan tâm ngươi.”
“Đây là phúc phận của Huyền Ảnh.” Huyền Ảnh nhàn nhạt trả lời, giọng khàn khàn mang theo tâm tình không rõ, hợp với gió sông nơi đây, càng khiến người ta cảm thấy một nỗi thê lương khó thể diễn tả.
Buổi trưa hôm sau, ba người nhóm Gia Cát Thủ đi bộ về hướng núi hoang bên ngoài cổng thành Đông. Đường núi gồ ghề mấp mô, cỏ dại mọc lút thành bụi, mất gần nửa canh giờ mới leo lên được sườn núi bằng phẳng. Đi men theo sườn núi ước chừng thời gian một chén trà nhỏ thì thấy một tòa đại trạch, quy mô tương đối đồ sộ, có điều gạch đá hư hại, nước sơn phai màu, bị năm tháng tàn phá đi vẻ huy hoàng vốn có.
“Người ở trong tòa trạch này chính là trọng thần tam triều…” Gia Cát Thủ thở dài, nhìn mấy chữ to
“Trấn Nam tướng quân phủ” trên cửa, trong lòng phiền muộn khó hiểu. Tấm hoành phi vốn phải lấp lánh kim quang, giờ đây lại bị một lớp bụi phủ dầy, dù được ánh mặt trời chiếu thẳng tới cũng không tìm lại được hào quang rực rỡ thuở xưa.
Kinh Niên đi tới trước cửa đưa tay đẩy nhẹ, cửa “Két” một tiếng hé ra một khe hở, cô thấy bên dưới không buộc dây nên thuận thế đẩy rộng ra. Lô Hoài Nhâm ở bên cạnh thấy cô chẳng chịu nghĩ gì đã nhảy vào trong, lật đật đi tới chắn đường: “Khoan đã! Tiểu muội! Ai cũng nói tòa trạch này có thứ quái dị, mọi người đi vào đều bị thương trở ra, còn không biết là mình bị thương thế nào, chúng ta nên cẩn thận thì hơn.”
Kinh Niên rụt cái chân vừa sải qua bậc cửa lại, hướng mắt nhìn lên mái hiên, rồi thò đầu vào cửa ngó quanh quất một vòng: “Kinh Niên không nghĩ chỗ này có gì quái dị.”
Gia Cát Thủ đi tới, cũng nhìn vào trong theo: “Bần đạo cũng không cảm giác được chỗ này có gì quái dị.” Bát quái Thái Hư cũng không phản ứng, rốt cuộc những người đi vào gặp phải chuyện gì?
“Cứ vào coi thử đi, trừ chết ra còn gì to tát đâu!” Kinh Niên tiên phong nhảy vào, Thi Ngũ gia theo sát phía sau, kế tiếp là Gia Cát Thủ, hắn chỉ nghĩ ngợi giây lát rồi cũng bước vào. Lô Hoài Nhân kêu “Ê ê” hai tiếng, thấy không ai ngoái đầu lại thì thở dài, cuối cùng đành phải dắt Trần Mộc vào theo.
Ba người đi men theo đường đá vào trong, dưới chân ngổn ngang đá vụn và cỏ nát, bụi cỏ hai bên như mới bị người ta xới lên, bùn đất văng khắp nơi. Trên thềm đá dẫn vào tiền sảnh chắn ngang một chiếc gương đồng cao cỡ một người, mặt gương đối diện cổng lớn, trên khung gương cẩn ba viên ngọc châu, một viên trong số đó cắm vài cây châm ám khí. Kinh Niên sờ sờ mặt ngoài gương đồng, quan sát trên dưới một lượt: “Chẳng lẽ đây là cái gương mà mọi người nói không gì không thể sao?”
Dứt lời thở dài nặng trĩu. Gia Cát Thủ đi vòng ra sau chiếc gương, xoa cằm, hỏi với vẻ khó hiểu: “Đặt cái gương ở đây làm gì chứ? Có ý nghĩa đặc biệt gì ư?”
Lúc này Lô Hoài Nhâm cũng chạy tới nơi, vừa nhác thấy gương đồng thì buột miệng kêu: “Mê Hồn kính?”
Gia Cát Thủ nghe hắn gọi tên của gương đồng, bèn ló đầu ra từ sau gương, hỏi: “Cái gì Mê Hồn kính?”
Lô Hoài Nhâm cười rộ lên: “Ta làm Thi quan lý nào không biết nguyên tắc của món đồ chơi này? Đúng không? Tiểu muội?” Hắn liếc qua Kinh Niên một cái, thấy cô gật đầu mới nói tiếp: “Mê Hồn kính, kính cũng như tên, có thể mê hoặc tâm thần, kỳ thật nguyên tắc khá giống với Mê Hồn trận, thứ thật sự phát huy tác dụng không phải bản thân gương đồng, mà là ba viên tiểu ngọc châu. Trên châu có khắc mê hồn chú, ngươi xem thử đi.”
Hắn dùng đầu ngón tay cạo cạo trên đỉnh ngọc châu, Gia Cát Thủ xít lại gần nhìn qua, quả nhiên nhìn thấy chú tự li ti cong cong lượn lượn trải rộng toàn bộ mặt châu.
Lô Hoài Nhâm nói tiếp: “Lúc ba viên ngọc châu bị chiếu sáng, chú tự sẽ thành hình, ba tia nối nhau hình thành một tiểu trận, rồi mượn mặt gương để khuếch tán rộng ra. Khu vực từ đây tới cổng chính đều thuộc bên trong trận pháp, xem ra những người trước đây vừa bước vào cửa đã rơi vào trong Mê Hồn trận, thần trí hỗn loạn, địch ta chẳng phân biệt được nên đánh nhau rối beng một trận, đợi tới khi trận thuật hơi yếu xuống thì bỏ chạy, sau khi tỉnh trí lại không nhớ rõ bên trong xảy ra chuyện gì, thành ra mới nghi thần nghi quỷ đồn bậy đồn bạ.”
“Xem ra chuyện cái gương cũng do trong lúc đầu óc rối mù nhìn thấy sơ sơ.” Còn đồn đi rất chi là thần kỳ, mà hoàn toàn không biết nó mới là đầu sỏ gây chuyện. Kinh Niên nhổ vài cây châm xuống, ngọc châu thoáng chốc vỡ “Rắc rắc” thành từng mảnh rồi rơi xuống mặt đất: “Cũng may có người làm hư hạt châu, không thì chúng ta cũng phiền phức.”
Gia Cát Thủ nghiêng đầu nhìn cái gương một lát, đột nhiên nói: “Tại sao làm Thi quan cũng biết việc này?” Giọng có vẻ không cam lòng.
Lô Hoài Nhâm nhìn vẻ mặt tị nạnh của Gia Cát Thủ, có lẽ là đang bất bình cho nghề nghiệp của mình đây mà. Hắn cảm thấy tiểu đạo sĩ này rất có tài so bì, thấy buồn cười trong bụng nên tiện đà đáp luôn: “Các loại trận pháp, chú thuật mê hồn này đều là tà ma ngoại đạo, đạo sĩ hòa thượng tự xưng là chính phái, đương nhiên chẳng thèm nhắc tới. Còn đa số Thi quan bọn ta trời sinh mạng khổ, mới bước chân vào giang hồ bất cẩn một lát là giao luôn cả mạng, không học nhiều chút thì sao được?”
Câu xỏ xiêng chê ngầm này vừa dứt, trong bụng Gia Cát Thủ cũng ngầm bốc hỏa, nhưng không cãi lại được, lại gặp cặp mắt cười nom có chút hả hê của Kinh Niên, hắn chỉ còn biết cắn tới nỗi hàm răng kêu cạch cạch, bực mình quay ngoắc đi, to tiếng nói: “Nếu cái gương này vô dụng thì còn ở lại làm gì, đi thôi!” Nói rồi bước xồng xộc vào phòng.
Kinh Niên cười trộm liên tục, che nửa bên mặt rù rì: “Lô đại ca, coi huynh làm hắn nổi khùng rồi kìa.”
Lô Hoài Nhâm bĩu môi: “Đạo sĩ thúi nào cũng y xì một đức hạnh, con mắt lỗ mũi hẹp hòi không cho người khác nói nửa câu mích lòng.”
Hai người nhìn nhau cười toe, rồi một trái một phải vòng qua cái gương đuổi theo.
Cửa tiền sảnh mở hé, bên trong kê bàn ghế rất ngăn nắp, có điều đâu đâu cũng phủ bụi dầy như lâu rồi không được dùng tới. Ba người đi băng qua hành lang phía sau phòng ra sau hậu viện, dọc đường đi không gặp được nửa bóng người nào. Khi đi tới lối vào hậu viện, Gia Cát Thủ đang đi tít ở đằng trước đột nhiên dừng bước, tay phải lần vào bên hông: “Bát quát Thái Hư có phản ứng.”
Kinh Niên xáp lên trước sóng vai với y, mắt hơi nheo lại: “Có âm khí?”
“Ừ.” Gia Cát Thủ lấy bát quái Thái Hư ra đặt trong lòng bàn tay nhìn một lúc: “Rất yếu, nhưng đúng là tỏa ra từ trong viện.”
“Hề! Ngay cả ta cũng không nhìn ra tý khí ít ỏi này, dù có quỷ thì chắc cũng chả mạnh mẽ gì!” Lúc này Lô Hoài Nhâm lại khá gan dạ dũng cảm, khoanh tay trước ngực nghênh ngang bước vào.
Gia Cát Thủ cầm bát quát, dợm từng bước nhỏ tới trước, Kinh Niên cũng không gấp gáp, chậm rãi đi theo sau lưng hắn. Mãi tới khi nghe Lô Hoài Nhâm ở trong viện hét lên một tiếng: “Ai?” mới đẩy nhanh bước chân vượt lên trước.
Chỉ thấy trong viện bốn bề hỗn độn, thảm cỏ trên đất đều bị xới lên tán loạn, khắp nơi la liệt những vũng nước sâu lớn nhỏ. Vừa ngước mắt lên, thì thấy trước cái hố to ngay giữa viện đang đứng hai người, một người mặc hắc bào đội mạng che, chính là Huyền Ảnh, người còn lại mặc tử sam, bên hông buộc kim đái. Lúc người này nhìn thấy Kinh Niên thì nở ra một nụ cười mỉm. Đợi thấy rõ được mặt mũi người nọ, Kinh Niên và Gia Cát Thủ đều thất kinh. Sau đó chợt nghe Gia Cát Thủ hô lên một tiếng “Điện hạ”, rồi sải bước đi tới.
Lô Hoài Nhâm nhìn trước ngó sau, đoạn thu lá bùa vừa mới móc ra lại, nghiêng đầu hỏi: “Quen à?”
Kinh Niên gật đầu, đứng nguyên tại chỗ không nhúc nhích, nhưng công tử mặc tử sam lại đi về hướng cô, lúc tới trước mặt, cô mới khom lưng chắp tay thi lễ, gọi một tiếng: “Điện hạ.”
Lô Hoài Nhâm hết nhìn bên nọ tới ngó bên kia, gãi ót hỏi: “Các người gọi hắn là Điện hạ? Điện hạ gì?” Chẳng lẽ là vương tôn quý tộc?
Gia Cát Thủ đang định lên tiếng, thì công tử mặc tử sam đã vội giành nói trước: “Tại hạ họ Điền, là Điền trong tá điền, tên một chữ Hạ, mấy bằng hữu đều thích gọi cả tên lẫn họ, nên thường khiến người ta hiểu lầm, thật là chẳng còn cách nào! Có phải không? Thủ, lão, đệ!”
Khi nói xong ba chữ cuối còn tiện thể trừng qua một cái mắt hổ, chân Gia Cát Thủ trợt một phát, xém nữa ngả chỏng gọng, bèn lật đật níu lấy Huyền Ảnh, không biết ứng phó sao mới phải. Cuối cùng nhờ Kinh Niên cơ trí, nhận ra công tử kia không muốn để lộ thân phận thật, ngay tích tắc Gia Cát Thủ sửng sờ đã tiếp lời ngay: “Đúng vậy, y còn có một biệt hiệu là Điền tiểu nhị, cũng hay bị người ta hiểu lầm lắm.”
Lúc này không chỉ Gia Cát Thủ, mà ngay cả công tử kia cũng mém chút nữa trượt chân, Lô Hoài Nhâm cười ngặt nghẽo, giơ tay nhắm chuẩn lưng công tử kia mà bộp cho hai phát: “Công tử gia, đừng để bụng làm gì, ai mà không có vài cái tên tục? Không nghe lọt thì bỏ đi!”
Công tử kia bị hắn vỗ tới sặc nước bọt, ho khan cả buổi mới nặn ra được khuôn mặt tươi cười có khuôn có mẫu.
Gia Cát Thủ đứng bên cạnh, ghé tai nói nhỏ với Huyền Ảnh: “Giờ Điện hạ lại giỡn trò gì thế?”
Huyền Ảnh lắc đầu không trả lời.
Kinh Niên lướt qua mấy người đi thẳng tới cái hố to, tới bên mép hố đưa mắt nhòm xuống, chỉ nhìn sơ qua rồi xoay người lại hỏi: “Điện hạ, ngài tới sớm hơn chúng ta, có biết ở đây rốt cuộc xảy ra chuyện gì không?”
Công tử tử sam trầm mặt lại, mí mắt hơi rũ xuống, quay về trước hố đứng chung với cô, lúc này những người khác cũng vây sang đây nhìn xuống dưới, sắc mặt tất cả đều đại biến.
Trên mặt nước đục trong hố trôi lềnh bềnh đầy mảnh gỗ vụn, hai bộ quan tài rỗng gãy
nát cắm xiêng trên thành hố, nước bên trong sủi bọt khí liên tục, bốc lên rồi vỡ ra bên ngoài, trông như một nồi bùn nhão đang sôi trào.
“Trong quan tài không có hài cốt?” Kinh Niên nhìn về phía công tử tử sam.
Công tử kia không đáp lời ngay, mà liếc mắt qua một cái mới nói: “Không có, lúc tại hạ vào thì đã là thảm trạng này rồi, trong nhà cũng không có ai.”
Kinh Niên đặt tầm mắt lên bọt khí giữa hố nước: “Người có thể phá Mê Hồn trận, là Huyền Ảnh, đúng không?”
Huyền Ảnh không lên tiếng trả lời, tức là ngầm thừa nhận, cô trao cho hắn một ánh mắt tán thưởng: “Trước đây không biết ngươi có thể dùng ám khí giỏi như vậy, chỉ dùng vài cây châm nhỏ là có thể phá được trận pháp kia, thân thủ quả là siêu phàm.”
“Mục Ngự… cô nương khen ngợi, Huyền Ảnh thật không dám nhận.”
Kinh Niên nhìn cái dáng cúi đầu câu nệ của hắn mà không khỏi mỉm cười, đoạn giơ hai tay đan vào sau gáy, duỗi người nói: “Hình như ở đây hết vui rồi, chúng ta tới chỗ cáo thị nhận tiền thưởng đi!” Nói xong quay đầu đi.
Gia Cát Thủ gọi giật cô lại: “Chờ chút đã!” Vừa nói vừa kề bát quái Thái Hư tới gần mặt nước: “Âm khí phát ra từ chỗ này!”
“Tất nhiên rồi, chỗ này có quan tài, nghĩa là trước đây từng chôn xác chết, huống hồ dưới nền đất vốn tập trung nhiều âm hàn, có âm khí còn không bình thường quá à, tiểu đạo sĩ đừng thiếu hiểu biết nên thấy gì cũng lạ nữa.” Lô Hoài Nhâm ngáp mấy cái liền, nối gót theo Kinh Niên.
Gia Cát Thủ bị hắn bám lâu, giữa chừng còn hứng đủ loại khiêu khích châm chọt, trong bụng vốn đã tích lửa, đêm qua còn thiếu chút nữa bỏ mạng trong tay Thi Ngũ gia càng làm cho hắn điên tiết hơn. Trước đây hai người này kẻ tung người hứng trêu đùa, hắn đã cáu tới tận óc, lúc này còn nghe Lô Hoài Nhâm bồi thêm mấy câu đùa cợt, rốt cuộc hắn bùng nổ —-
“Đừng có hở một tiếng là tiểu đạo sĩ! Bần đạo đi không đổi tên ngồi không đổi họ, ngươi không phải tổ tiên nhà ta cũng không phải sư phụ của ta, sau này mời tôn trọng chút!”
Kinh Niên ngoái đầu nhíu mày: “Lô đại ca, huynh gọi hắn là đạo gia như ta có phải hơn không, chúng ta đâu cần ngay cả loại chuyện nhỏ nhặt này cũng tính toán chi li đâu.”
Đây rõ ràng là ám chỉ hắn bụng dạ hẹp hòi, Gia Cát Thủ “Ngươi” nửa ngày cũng không nặn ra được câu sau.
Lô Hoài Nhâm kêu liền hai tiếng “Đạo gia”, giọng còn lớn hơn bình thường, âm mưu chọc người ta nổi khùng, cuối cùng còn cười to mấy tiếng, vừa nói vừa cười theo Kinh Niên đi ra khỏi viện. Thi Ngũ gia và Trần Mộc phía sau cũng sóng vai nhảy theo, nhảy lên đáp xuống nhịp nhàng ăn khớp.
Chỉ tội cho Gia Cát Thủ tức tới nhe răng trợn mắt, lúc này công tử tử sam bước lên vỗ vỗ vai hắn, hí mắt cười, lộ ra hai hàm răng sáng bóng: “Được rồi, Thủ lão đệ, không phải đệ là đạo sĩ sao? Đổi nghề làm tú tài khi nào thế?”
Sau đó moi cái quạt xếp trong ngực ra, mở phật rồi vỗ phạch phạch vào vạt áo trước, bước ra ngoài. Huyền Ảnh bám sát sau lưng y, khi đi tới trước cổng viện thì bỗng dừng lại, nghĩ ngợi gì đó rồi lộn trở lại: “Gia Cát đại nhân, Điện hạ không phải cố tình đùa cợt đại nhân đâu.”
“…”
Đoàn người xuống núi vào thành, Gia Cát Thủ và Lô Hoài Nhâm về khách điếm trước, Điện Hạ và Kinh Niên đi tới bờ sông ngoài cổng Bắc, Huyền Ảnh thì chờ ở cổng thành.
“Điện Hạ, nói với ta một chút đi.” Kinh Niên tựa vào hàng rào bao dọc bến thuyền, thốt ra một câu không đầu không đuôi.
Nhưng Điện Hạ lại không thấy kỳ quái, chỉ hỏi: “Nói gì đây? Nói ta tìm muội vì cái gì sao?”
“Cái đó bàn sau.” Kinh Niên liếc y một cái: “Lúc nãy có người ngoài không tiện hỏi, chẳng phải phủ Tướng quân kia là do Tiên Thái Hoàng ban thưởng à? Sao bây giờ lại muốn thu hồi, ngài tới chỗ Huyện gia chắc không chỉ để đánh một giấc nhỉ? Nghe nói ngài và Phó tướng giao tình rất tốt, hắn đâu rồi?”
“Câu hỏi của muội đúng là không ít.” Điện Hạ nhìn cô cười cười, rồi ngoảnh đầu nhìn hướng mặt sông: “Phó tướng đi đâu… ta cũng không biết, phụ hoàng trắng trợn khởi công xây dựng miếu quan, ba nơi dân chúng cư ngụ là Ngũ Liên sơn, Phong Hoa cốc, Thổ Diêu đều bị cưỡng chế di dời, chỉ riêng ở đây là lâu rồi chưa trưng thu xong… Tất nhiên thôi, linh mộ của Tướng quân hai đời trước đều hạ táng dưới tòa trạch, lúc xây miếu quan nhất định phải đào xới đất, chuyện nghịch lý đào mồ tổ tiên này người nào chịu theo chứ?”
Kinh Niên cảm thấy khó thể tưởng tượng nổi, hỏi: “Sao Tướng quân lại chôn hài cốt đời trước bên trong nhà?” Là truyền thống gia tộc hay vì lý do kỳ quặc khác?
Điện hạ cũng biết cô sẽ hỏi vậy, không chỉ mình cô, mà nghĩ việc này kỳ quái có tới khối người: “Ta cũng chỉ nghe Phó tướng quân kể lại thôi. Ban đầu trên đỉnh núi này có một miệng giếng, vì nước giếng sủi bọt quanh năm, không ai dám uống nên để hoang rất lâu. Sau đó có một ông chủ trà lâu hám lợi, sai người chạy lên đây múc nước, dùng nước giếng đục này để pha trà. Kết quả người uống nước trà pha bằng nước giếng này không phải mắc bệnh nặng thì cũng chết bất đắc kỳ tử. Tới khi quan sai tìm đến ông chủ kia mới lộ ra chuyện nước giếng. Quan phủ lập tức lên núi xét nghiệm nguồn nước, nhưng không thử ra độc. Vậy mà ông chủ kia cứ khăng khăng là nước giếng đang giở trò, quyết định đào cái giếng lên để tìm hiểu tới cùng. Cuối cùng đào ra một xác nam.”
Y nói đến đây bèn dừng lại, hơi nghiêng đầu thì thấy Kinh Niên đang há miệng, dáng vẻ nghe tới nhập thần, trong mắt y hiện lên ý cười, ho khan một cái rồi tiếp tục:
“Nhìn kiểu y phục mặc trên người thi thể kia, ít nhất cũng có trăm năm lịch sử, nhưng ngoài hư hại chút ít ra thì màu sắc vẫn tươi mới như trước, ngay cả thi thể cũng không hư thối, cứ như mới chết không bao lâu vậy.”
“Quan phủ vừa nghi vừa sợ, nên tìm đạo sĩ tới để làm pháp sự hỏa táng cho thi thể, đồng thời báo chuyện này lên trên. Khi đó cũng đúng lúc Tướng quân đời đầu tiên chinh Đông thắng lợi trở về, nghe thấy việc này thì nói đùa với Tiên Thái Hoàng rằng muốn lấy mảnh đất đó làm phần thưởng, nói rằng sau khi chết muốn để lại thân thể trên đời. Nào ngờ Tiên Thái Hoàng đồng ý ngay không do dự, chẳng những ban thưởng đất xây phủ, mà còn ban tước hiệu “Trấn Nam Tướng quân”, tự tay đề hoành phi rồi phái người tặng tới cửa. Sau đó, Tướng quân cho người tu sửa lại miệng giếng, đồng thời mở rộng đáy giếng xây một cái huyệt dưới nước, đợi sau khi y về cõi tiên, người nhà liền mang quan tài gỗ bỏ vào đáy giếng. Đời thứ hai cũng thế, tập tục cứ vậy mà truyền lại.”
Kinh Niên nói chen vào: “Trong cái hố giữa sân có cắm hai bộ quan tài, lẽ nào cái hố đó là miệng giếng?”
Điện Hạ gật đầu, sắc mặt tối đi trông thấy: “Ta từng lên phủ Tướng quân làm khách mấy lần nên sẽ không nhớ lầm, đích thật là ở đó, mặt gương kia ta cũng đã gặp, Phó tướng quân từng nói đó là bảo vật trấn phủ. Có lẽ do bị người ta xông tới thu đất dồn dập, dồn tới đường cùng mới ra hạ sách này. Ta cũng nhờ Huyền Ảnh phá Mê Hồn trận xong mới vào được, cứ tưởng có thể gặp được Tướng quân, nào ngờ… ngẫm lại nếu có người tới trước đào giếng trộm thi, chỉ sợ Phó tướng cũng dữ nhiều lành ít.”
“Người tới trước cũng thật bản lĩnh, có thể vòng qua Mê Hồn trận đi thẳng vào trong.”
Người biết có một trận thuật khá nhiều, nhưng người thật sự thấy thì không có mấy. Nếu không phải biết trước ở trước cửa bị bày trận, thì phải biết rõ cách phá trận. Chẳng biết đào giếng trộm thi có phải một người hay không, cũng không biết nó có liên quan gì tới chuyện trưng thu đất của Hoàng thượng. Nhưng nhắc tới Ngũ Liên sơn, Phong Hoa cốc và Thổ Diêu, làm cô sực nhớ ra núi hoang này vốn tên là Nam Lĩnh, từng là sơn cư thịnh địa(*), xây miếu quan tại bốn nơi này chắc chắn có ẩn tình. Nghĩ vậy, cô chợt cảm thấy sống lưng lạnh toát, dự cảm như có tai họa sắp giáng xuống.
(*) Ngọn núi dồi dào tài nguyên thích hợp để định cư.Điện Hạ không để ý thấy vẻ mặt bất an của cô, trong lòng vẫn canh cánh về an nguy của Phó tướng quân, nhìn sông than thở: “Sau khi tướng quân bị cách chức ta có từng tới đây thăm, khi đó y đã đuổi hết gia nhân, một mình đóng giữ nơi đó, thầm muốn giữ gìn một chốn an thân, nhưng ngay cả tâm nguyện nhỏ nhoi này của y mà ta cũng không thực hiện được.”
Y từng nhiều lần nói vào, xin phụ hoàng thu hồi trình mệnh, nhưng phụ hoàng cứ quyết tâm muốn thu hồi đất lại: “Haizz… Phụ hoàng thật là càng già càng hồ đồ.”
Coi như không nhắc tới chuyện mấy đời Tướng quân dốc sức cho triều đình, chiến công hiển hách, mà chỉ dựa vào Thánh địa được chính Tiên Thái Hoàng ngự ban cũng không cho phép hậu thế ngông cuồng sửa lại di mệnh, đó là chưa kể chuyện đào mồ tổ tiên của người ta lên cũng đủ khiến cho thiên hạ xỉ vả.
Kinh Niên thấy vẻ mặt xúc động phẫn nộ của y thì thở dài: “Ngài nói về Hoàng thượng bất kính như vậy, không ngại sao?”
Điện Hạ hừ một tiếng: “Ông ta dựng miếu quan là để luyện linh đan cầu trường sinh bất tử, không phải hồ đồ thì là gì! Sinh lão bệnh tử, bất di bất dịch, nào có ai không chết? Tại sao phụ hoàng không nhìn thấu chứ?”
Y kính trọng phụ hoàng ở chỗ dũng cảm vĩ đại, trên có thể chấn triều cương, dưới biết thương dân khổ, huy hoàng hơn nửa đời người, sóng gió gì cũng đã trải qua, dù thân chinh ra chiến trường cũng chưa từng lùi bước, vậy mà phút cuối cùng lại khiếp sợ chuyện tất yếu phải xảy ra. Y không rõ, người già rồi thì suy nghĩ cũng thay đổi theo ư, nếu ai ai cũng như thế, thì chẳng phải thiên hạ đại loạn rồi sao?
“Chuyện mà con người không nhìn thấu rất nhiều, người muốn trường sinh bất tử cũng rất nhiều, nhưng có mấy ai được toại nguyện đâu? Con người nên an phận làm người thì hơn.” Kinh Niên khom lưng tựa vào hàng rào, chống khuỷu tay đỡ má, mắt lim dim như đang ngủ:
“Không nói chuyện này nữa, Điện Hạ, ngài nói chút đi, muốn tới bắt Kinh Niên thì cứ tới, tội gì sai một đạo sĩ theo chân ta? Đạo gia đó làm quan à? Trước đây chưa từng thấy hắn ở trong cung.”
“Thủ lão đệ là con trai độc nhất của Hiền thừa tướng, Hiền thừa tướng say mê đạo học, sau khi có con thì lập tức đưa con tới đạo quan tu hành. Thủ lão đệ cũng không kém cỏi, còn nhỏ tuổi đã được tôn xưng là chân nhân, mười tuổi vào triều thụ phong chức ngự quan, lúc muội còn ở trong cung hắn đang ra ngoài đi thăm đạo quan các nơi, cho nên không chạm mặt…”
Y thấy Kinh Niên nguýt sang, cứ như cực mất kiên nhẫn khi nghe y nói về gia thế của Gia Cát Thủ, vội vàng vào thẳng đề: “Hắn bám theo muội cũng xuất phát từ trùng hợp, ta từng phái người đi nghe ngóng tung tích của muội khắp mọi nơi, nhân tiện phát thư tín cho các quan viên ngoài hoàng thành, nếu nhìn thấy cô nương mặc bạch y gấm hồng, bên cạnh dẫn theo một cương thi hành đầu, thì phát hỏa tín báo vị trí. Thủ lão đệ phát hỏa tín đầu tiên ở thành Phú Quý, nghe đâu lúc đó hắn được người nhờ cậy vào đó đuổi quỷ, kết quả tình cờ gặp được một người như miêu tả. Thủ lão đệ là người có nề nếp, đã được người nhờ vả thì nhất định dụng tâm, do đó mới bám theo muội, tránh cho ta tới nơi thì muội cũng chạy xa.”
Kinh Niên cười giễu một tiếng, mỉa mai nói: “Hắn dụng tâm cũng dụng hơi quá rồi!” Không phải chỉ bắt một người thôi sao, còn phải mất công phí sức như vậy, khiến cho cô phải nghi thần nghi quỷ, không an tâm nổi.
Điện Hạ nhìn thoáng qua cô, dường như đoán được cô đang nghĩ gì, bèn nở ra một nụ cười nhạt: “Muội cho là… ta tới để bắt muội về triều hỏi tội sao?”
Kinh Niên trầm mặc không đáp, y nói tiếp: “Lén chạy ra khỏi cung là một tội, tự tiện mang theo Thi Ngũ gia lại là một tội, tội chồng thêm tội, đáng bị phạt nặng.”
“Đừng quên Ngũ gia là ta mang vào cung, chức quan cũng không phải ta muốn, phạt tội bừa khó thể phục người.”
Đầu năm ngoái, cô vào kinh xem hội chùa, đúng lúc Hoàng thượng xuất cung tế linh, giữa chừng Ngự thi quan đi theo xảy ra sự cố trong lúc đổi bùa, làm hành đầu đột nhiên phát cuồng gặp ai cắn nấy. Lúc ấy cô tình cờ đi ngang qua, thấy thứ điên khùng kia đang cắn bậy cắn bạ ở đối diện nên tiện tay ném một lá bùa qua. Khi ấy cô không biết người ngồi trong kiệu là ai, nếu như biết thì giá nào cũng sẽ không ra tay bừa bãi. Hậu quả là chỉ ném ra một cái, cũng ném luôn mình vào đống rắc rối to.
“Mục ngự quan, Thi Ngũ gia là cương thi trong sách Ngự, tuy năm xưa hoàng đế phân cho tổ tiên muội sử dụng, nhưng nó vẫn thuộc về hoàng thất, tổ tiên muội vì muốn chiếm làm của mình nên mới bị trục xuất khỏi cung. Phụ hoàng niệm tình muội có công hàng phục cuồng thi, nên mới không tính toán tội trạng trước đây. Phong muội làm Ngự thi quan là muốn muội có thể tiếp nối trách nhiệm còn dang dở của tổ tiên, tiếp tục dốc sức cho triều đình, muội thật sự không nên…”
“Ngũ gia là của ta!” Kinh Niên cắt ngang lời y, ánh mắt sắc như đao: “Cương thi bị xếp vào sách Ngự chỉ cần bị phái đi thì ai cũng dùng được, tới khi không cần thì tống vào hầm băng. Tuổi đời quá lâu không xài được nữa thị bị đốt trụi như đốt thứ vứt đi, Ngũ gia ta sao có thể chịu thứ đãi ngộ như vậy?!”
“Hỏa táng… là một loại giải cấm cho linh hồn, sao có thể nói…” Y còn chưa nói hết lời đã bị vành mắt ầng ậng nước của Kinh Niên làm phát hoảng.
“Đó không phải hỏa táng, mà là hỏa hình! Để đuổi linh hồn khỏi cơ thể mới dùng tới dương hỏa để thiêu cháy, dù cho âm linh có thể nhờ đó mà thoát khỏi cơ thể thăng thiên, nhưng trong đó có bao nhiêu thống khổ ngài có tưởng tượng được không?! Thăng linh, đuổi linh chỉ khác nhau một chữ, nhưng ý nghĩa lại khác nhau như trời đất!” Con người có bao nhiêu ngu xuẩn thì có bấy nhiêu ích kỷ!
Điện Hạ không ngờ phản ứng của cô lại mãnh liệt như vậy, nhất thời cứng họng không biết nói gì. Từ khi quen biết tới nay cô luôn chào đón mọi người bằng gương mặt tươi cười, làm cho người ta không khỏi hoài nghi có phải cô chỉ có độc một loại cảm xúc vui tươi hay không, người như vậy lại có thể lấy nước mắt của cô, thứ đã mất đó quan trọng đến vậy sao, đáng để cô phải thế này sao?
Kinh Niên túm tay áo lên lau mắt, hít khô nước mũi, lúc thả tay xuống thì đã trở lại với khuôn mặt tươi cười: “Điện Hạ, không tán dóc nữa, ngài muốn bắt ta, còn phải xem ngài có bãn lĩnh này hay không. Không phải ta khoác lác, nói thật dù Huyền Ảnh xuất thủ cũng chưa chắc làm gì được ta, chưa kể có thêm Ngũ gia áp trận, nếu không muốn lưỡng bại câu thương(*), thì ta khuyên Điện Hạ nên nhắm một mắt mở một mắt thả Kinh Niên đi đi!”
(*) Cả hai đều thiệt.