Tình Nghĩa Đồng Đạo

Chương 41


trước sau


Nếu được hỏi sự lạ trong lễ hạ thọ của ông huyện Tường vào mùa xuân năm đó là gì, người dân phủ Gia Hưng sẽ đáp chắc nịch: "Mặt trời mọc ở hướng Tây!"

Không phải tài nữ Gia Hưng xướng khúc phong trần giữa thọ yến làm rung động nhân tâm, cũng không phải cô ba nhà huyện duyên dáng pha trò khiến gần trăm người cười lăn ra chiếu, mà đích thị là cảnh "mặt trời mọc ở hướng Tây."

Thật ra đó chỉ là cách nói ví von của bọn sĩ tử nho đồ ám chỉ việc cậu Dương trác táng bất ngờ xoay mình trở thành tài tử Tây đạo, ý tứ đối để suôn tai, câu chữ lại hợp với ngữ cảnh, suy qua ngẫm lại càng khó tin như chính bản thân câu nói, vậy là thành luôn lời cửa miệng đầu môi.

Tỏa sáng như ánh mặt trời trên khắp Tây đạo. Cớ sự gì cậu Hai nhà này lại được tôn vinh như vậy?

Sự là, cái lúc cậu Hai hạ bút, chẳng biết cớ gì lại thẳng tay viết ngay vào quyển phả quý của ông quan hoạn. Chờ người xung quanh hoàn hồn xông lên ngăn cản thì cũng thành việc đã rồi. Lương Đăng quýnh quáng bổ nhào lên ôm lấy cuốn phả, mặt mũi rúm lại, xem chừng đã khóc đến nơi.

Ấy vậy mà mắt vừa chạm đến những dòng mực đen tuyền trên trang giấy sắc, tâm tình của ông chẳng hiểu sao lại lập tức đổi thay, biểu cảm dần dần trở nên kinh ngạc, phút chốc đã ra lệnh cho mọi người thả cậu Hai ra để hắn tiếp tục viết.

Giữa sự nhốn nháo của bầy tôi nhà quan huyện, gã thanh niên chỉ lười biếng mỉm cười, uể oải cong người tiếp tục phóng bút.

"Ông sinh thời quý đàn như mệnh
Hậu vong thời vâng lệnh lịch biên
Đàn bầu, đàn nhị đàn kim
Đàn tam, đàn tứ, còn thêm đàn bà
Vĩ đầu tấu khúc oanh ca
Màn buông vĩ gốc thành ra rợn rùng
Đầu xòe ai bịt mà rung
Cử đàn ai hạ não nùng oán âm?
Đẩy đưa cung vĩ mà ngâm
Dặm trường vó ngựa tưởng lầm khúc chinh

Dây căng đứt mới giật mình
Vĩ mao hai đoạn cười mình huyễn hoang.
Quay về tấu khúc phượng loan
Song loan, trống đế, hợp hoan vui vầy."

(Giải thơ: 

"Đàn bầu, đàn nhị đàn kim
Đàn tam, đàn tứ, còn thêm đàn bà"

"Đàn bà" ở đây trên mặt thơ được hiểu là đàn tỳ bà, ngầm ý ám chỉ đàn bà trong cung.

"Vĩ đầu tấu khúc oanh ca
Màn buông vĩ gốc thành ra rợn rùng"

"Vĩ đầu" là đoạn đầu của cung vĩ - tức cái cung kéo của đàn cò/nhị - thường có thể tạo ra loại âm thanh trong trẻo như chim hót. "Vĩ gốc" là đoạn cuối của cung vĩ, thường dùng để tạo ra âm trầm, mạnh, có lúc còn hơi thô và rùng rợn. Ý hai câu này là sự thể trong cung cấm quay ngoắt như âm thanh phát ra từ đầu và gốc cây cung vĩ, bình thường trong sáng vui tươi, màn buông trướng rũ liền trở nên gớm ghê rùng rợn.

"Đầu xòe ai bịt mà rung
Cử đàn ai hạ não nùng oán âm?"

Đàn nhị có cái bát nhị (bụng đàn) hai đầu, một đầu bọc da một đầu xòe ra để hở, nghệ nhân trong lúc chơi đàn thường dùng chân bịt bên đầu xòe để giảm độ vang và thay đổi âm thanh thành xa vắng, mơ hồ, lạnh lẽo... Cử nhị là bộ phận điều chỉnh độ trầm bổng, nâng lên là âm thấp, đẩy xuống thành âm cao, nghe thoáng qua như tiếng người khóc than oán thán. Ở đây ý chỉ người ở trong cung thân bất do kỷ, phải bịt mồm bịt miệng run sợ mà sống, không thể ngóc đầu làm người mà chỉ biết oán thầm.

"Đẩy đưa cung vĩ mà ngâm
Dặm trường vó ngựa tưởng lầm khúc chinh
Dây căng đứt mới giật mình
Vĩ mao hai đoạn cười mình huyễn hoang."

"Vĩ mao" ở đây là lông đuôi của con ngựa, thường được dùng để làm cung vĩ kéo đàn. Ý của bốn câu thơ này là người đàn hát mê mải tấu xướng mà mơ ra khung cảnh hùng dũng ngoài sa trường, tưởng lầm mình đang hát bài ca chinh chiến, đứt dây cung giật mình nhìn xuống mới nhận ra trong tay chẳng qua chỉ là mẩu đuôi ngựa bị đứt đôi, bèn tự nhạo cười giấc mộng trai tráng hoang đường mình vừa mơ ra.

"Quay về tấu khúc phượng loan
Song loan, trống đế, hợp hoan vui vầy."

 "Song loan" và "trống đế" đều là hai loại nhạc cụ cổ truyền của dân mình, ở đây vừa hay có thể ám chỉ cảnh một vua hai bà (song loan= hai gà, trống đế = vua) đấu đá kịch liệt trong cung đình. Toàn nghĩa của hai câu này là nghệ nhân bình tâm lại sau giấc mộng hoang đường, bèn quay trở về công việc là tấu khúc vui vẻ để phục vụ thú vui ân ái của vua và các bà phi. Câu dưới còn có ý mượn hình tượng hai bà một ông để trào phúng cái gọi là vẻ ngoài hợp hoan vui vầy của hậu cung cổ đại.

Nói chung, nguyên bài thơ thoạt nhìn chỉ là một bản trần thuật các hiểu biết, kỹ thuật kéo đàn nhị cùng công việc của người quan hoạn kiêm nhạc công trong hậu cung thời đấy; song ẩn bên dưới lại là bầu tâm sự não nùng của người hoạn quan khi phải chứng kiến, thậm chí bị ép tham gia vào các tranh đấu u tối trong cung... Tâm ngạo khí cao cùng chí hướng làm trai gánh vác giang san cũng theo đó mà bị biến thành một giấc mộng hão huyền, khiến cho người đàn ông mang thân thể khiếm khuyết oán tiếc không thôi, cuối cùng sinh ra trào phúng mỉa mai hậu cung - bao gồm các ông vua bà chúa và bản thân mình trong đó.

Bài thơ là do tui tự viết, sợ chưa đủ thấm đủ sâu nên phải giải thích cặn kẽ bù vào để mấy chế đọc qua liền bị lừa mà sinh ra ảo tưởng "nhỏ này nó giỏi thơ dữ"~ =)))) 

Tui không biết tiếng Hán, ba cái chi hồ giả dã... mù tịt! Nên là làm thơ được tới mức [diễn Nôm?] này thôi, không biết có hay không nhưng xin mạn phép tự sướng buff nó lên thành "một bài thơ hay" trong truyện này. Bên cạnh đó, theo wiki thì thể thơ song thất lục bát này mãi đến thế kỷ 18 mới thịnh, còn bối cảnh tui đang dùng là nhà Lê sơ thế kỷ 15, thậm chí là thể lục bát chỉ mới xuất hiện vào cuối thế kỷ 15 (=__=!) cơ mà tui biết chuyện này sau khi đã làm xong bài thơ nên là... đành kệ haha :D)

Đinh Thắng là người sực tỉnh đầu tiên sau màn múa bút của đứa con thứ nhà họ Nguyễn Hoài. Ông là người ngoài vùng mới đến, đối với tai tiếng của cái tên ăn chơi trác táng này vẫn còn mơ hồ, do đó khi thấy vị thiếu niên trẻ tuổi có thể làm ra một bài thơ ý tứ hàm súc, câu từ trôi chảy thì không đến nổi kinh hãi như người xung quanh. Ông chỉ thoáng ngỡ ngàng khi cậu có thể bắt chước y hệt nét bút của người đã khuất, lại nghĩ chốn kinh kỳ sĩ tử thông thạo mặt này cũng chẳng đến nổi hiếm hoi, đất Đại Việt rộng như vậy, gặp trúng một vài nhân tài cũng không hẳn là điều lạ.

Nhưng ông có phần thưởng thức sự to gan của cậu.

Bài thơ ngoài mặt chỉ là một đoạn trần thuật sở thích cùng công việc của cụ giám Lương Trung trong hậu cung triều Trần ngày xưa, ngoài chút ngậm ngùi cho cái phận tôi đòi của một người bị hoạn thì chẳng có gì đặc biệt, so với những bài thơ do cậu Phát và đám nho đồ kia làm ra cũng mang bảy phần ý tứ tương tự. Song may mắn thay Đinh Thắng đối với đàn cầm vốn có nghiên cứu sơ qua, nhìn câu chữ trong bài thơ này liền hiểu thêm một tầng ý khác.

Ngoài oán, ngoài than, còn có nhạo cười và tố cáo. Tố cái tính ác của đàn bà chốn thâm cung, cười cái tính dâm của bậc chí tôn thiên hạ.


Bài thơ này may mắn được viết sau khi triều Trần đã lụi, nếu ra đời sớm trước vài chục năm Đức Lê hoàng đăng ngôi thì đã thành thơ văn phản nghịch. Nhưng thời đã đổi, thế đã thay, quan mới dù có nhìn thấy những bất kính với tiền triều, e cũng chỉ thở dài mặc kệ.

Lướt mắt qua vẻ mặt bình thản của gã thiếu niên, Thắng nhủ thầm, hẳn cậu đã biết điều này, vừa rồi mới có thể mạnh tay viết thẳng vào quyền phả như vậy. Nguyễn Hoài Dương chắc chắn trong mấy ngày này đã thông qua những chuyện phiếm của ông Đăng kể về cụ Lương mà đúc ra một số kết luận, từ đó đoán biết tâm ý của người kể chuyện mà viết nên những dòng trần thuật không những thuận lòng người đã khuất, còn hợp ý kẻ đương thời.

Cứ nhìn bộ dáng cảm động đến run rẩy của ông Đăng lúc này mà xem, rõ ràng đối với vị quan hoạn, bài thơ đã thành công nói hết nỗi lòng chất chứa mà ông cho rằng thầy mình luôn nuôi giữ. 

Lương Đăng lúc bấy giờ quả

thật đã không còn tâm trí chú ý những người xung quanh, lòng dạ đều đặt để lên lời thơ con chữ trên mặt giấy sắc ố vàng. Không những nét chữ giống y như đúc, thói quen dùng đàn để bàn thế sự lại càng chẳng lẫn vào đâu. Có lẽ nào cơ chứ...?

Ông nhìn chằm chằm những dòng chữ như rồng bay phượng múa trước mặt, đột nhiên cảm thấy mông lung mơ hồ.

"Vì sao... gần đến cuối bài thơ, cậu lại chuyển thành lối khải?"

Đám người bao quanh cuốn gia phả lúc bấy giờ mới giật mình nhận ra nét chữ trong thơ quả thật từ lối cuồng thảo đã từ từ chuyển về lối khải thư, nhất là ở hai câu cuối, đường nét lại càng ôn hòa, trầm lắng, thể như chủ nhân đã quay về trạng thái an tịnh lúc ban đầu. Để chuyển thể mượt mà đến nổi người đọc mãi một lúc mới giật mình nhận ra như thế, thư pháp của kẻ này ít nhiều phải luyện trên mười năm! Cậu Hai Dương này rõ ràng là thâm tàng bất lộ.

Đám sĩ tử nho đồ kẻ nào kẻ nấy chỉ còn biết tròn mắt nhìn người, còn cái gã mang danh "thâm tàng bất lộ" nọ lại chỉ mỉm cười đầy lễ giáo.

"Bẩm ông, mấy ngày qua nghe ông kể dăm ba mẩu chuyện về cụ Lương nhà ta, con mạn phép nghĩ cụ vì trải lắm phong ba ắt là người biết quý cảnh tịnh nhàn, dù trong lòng đa mang nỗi niềm non nước, cuối đời cũng không hy vọng con cháu phải nặng gánh quan san, nét chữ mới dần dần trở về đường xưa lối cũ."

 Ông Đăng cứng người, phất mắt lên nhìn thẳng vào cậu Dương, bàng hoàng, ngỡ ngàng và còn chút... run rẩy.

"Ý cậu là...?"

"Lòng người quý nhất chữ an, giang san trọng nhất chữ bình, cụ Lương quá cố là một người trung nghĩa toàn vẹn, chắc rằng sẽ muốn đời sau của mình được trọn kiếp bình an."

Nói đến đây thì không những Lương Đăng, Đinh Thắng, mà cả những vị quan ông và sĩ tử nho gia có mặt đều giật mình đến lặng người đi. 

Đây rõ ràng là một lời khuyên răn ngấm ngầm!

Giỏi cho một gã vô học, hay cho một tên trác táng, nửa khắc trước vừa nhân danh người chết làm một bài thơ chửi mắng tiền triều, nửa khắc sau đã ngầm răn hoạn quan liệu bề mà yên phận!

Lương Đăng dù trước giờ chưa từng lộng quyền kết bè kết đảng, nói cho cùng cũng là một hoạn quan lưu lạc nhiều năm nơi triều đình phương Bắc, vừa được Tuyên Đức Đế cho về cố hương lại được vua mình ban cho chức rộng quyền cao, trong mắt bọn sĩ tử nho gia chính là một mối họa chưa thành hình. Mấy hôm nay dù kẻ bợ đỡ, người xu nịnh, đám quan nhỏ này nói đến cùng cũng tự cho xuất thân nho gia nên đối với hoạn quan ít nhiều có chút khinh nhờn, sau lại nghe Đăng kể về cái chết của thầy mình bằng giọng điệu không cam và tiếc hận, họ lại càng thêm nghi kỵ ông có điểm không an phận. Dĩ nhiên, nghĩ thì nghĩ cũng không ai dám nói. Nay đột nhiên lại nhảy ra một kẻ gan to bằng giời dùng oai người chết để uyển chuyển răn đe, rõ là một bậc trung lương ái quốc, khiến cho họ nể phục không thôi...!

Có thể đối với những sĩ tử nho đồ nọ, lời khuyên răn của Dương đầy ắp ý răn đe; nhưng vào tai quan hoạn họ Lương, lại là một lời nhắn nhủ chân thành từ cõi chết.

Thời khắc xa rời trần thế, thầy ông chẳng đã từng vuốt đầu ông trối lại mấy từ, "trọn kiếp bình an?"

Lúc đó, ông chỉ nghĩ đơn giản đấy là thân thể an khang khỏe mạnh, bởi có khỏe mạnh ông mới có thể thay thầy trả được thù, dọn sạch hết đám hậu cung dơ bẩn. Nhưng rồi vua Trần chết ngay vào năm thầy ông tạ thế, nhà Trần mấy đợt truân chuyên cũng mất vào tay họ Hồ, bản thân ông bị bắt về Bắc trào làm thân nô bộc cho nhà Minh gần hai mươi năm đằng đẵng, hằng này từ phủ Ứng Thiên ngóng về nơi cố thổ loạn lạc mà cảm thấy chán ngán vô cùng, trong lòng sinh ra ý nghĩ không cam lúc nào không hay...

Nay tuổi đã xế, chức quan ngược lại càng cao, nghĩ đến tráng chí hùng tâm của gia phụ lúc xưa, tâm tư  không tránh được sôi trào, lắm lúc đã nảy ra cái lòng khuynh đảo triều chính. Chỉ là e ngại tân đế bây giờ quá anh minh, ông đành gằm cúi thu mình đợi dịp.

Giờ gã thiếu niên này lại nói cho ông hay, thầy ông mong ông bình an trọn kiếp.

Thầy ông lúc ra đi tức tưởi là thế, tiếc hận là thế, còn có thể mong hậu duệ của mình an phận sống kiếp đê hèn suốt kiếp hay sao?

Đăng muốn gầm lên phản đối, rằng thằng oắt kia chỉ toàn nói bậy, nói điêu, tuổi đời chẳng có bao nhiêu, làm sao có thể đoán ra tâm nguyện người khuất núi?!

Nhưng cái thằng oắt tuổi đời không đáng bao nhiêu đó lại chẳng vừa viết ra ruột gan của ông cụ nhà mình?


Cậu đã đoán được cái tâm của ông, lẽ nào lại không trúng cái nguyện?

Lương Đăng bần thần một hồi lâu, cuối cùng rũ mắt, phất tay cho cậu Dương lùi về chỗ, phần mình trầm mặc suốt buổi tối hôm đó, ai nói gì cũng không buồn động.

Rạng ngày hôm sau, giữa lúc đám khách nhà huyện vẫn chưa khỏi bàng hoàng trước sự kiện xảy ra đêm qua, quan hoạn Lương Đăng lại gióng ngang tai họ một hồi trống khác.

Ông ra lệnh ban thưởng hậu hĩ cho cậu Hai Dương.

Việc này được đám nho sĩ hiểu như sự tiếp nhận ngấm ngầm của Lương Đăng trước lời răn đe nọ.

Thế là chỉ qua một đêm, danh tiếng Nguyễn Hoài Dương đã bắt đầu chắp cánh. 

Nào tài tử trung lương, nào anh tài trác tuyệt, nào tuyệt tác thơ phả cảm hóa đến cả đấng quyền thần. Dĩ nhiên, tất cả đều đã được phóng đại qua miệng lưỡi thế nhân. Dương chỉ là có ý khuyên nhủ người xưa, quan hoạn họ Lương cũng chưa từng là một quyền thần, bài thơ phả nọ càng không phải thần kỳ như đồn đại. Tất cả, đều giống như một hơi thở mùa xuân bị người đời thổi thành cơn gió mạnh, phút chốc đã trở thành cuồng phong bão tố.

Nhưng đó lại là chuyện của vài tuần trăng sau. Còn hiện tại, bão tố thật sự cậu Hai của chúng ta phải đối mặt, chính là cơn giận của vợ mình.

Cái đêm trở về từ thọ yến ông huyện, Vũ đối với tài năng vừa phát hiện của chồng không có phản ứng gì, về đến phòng liền chui rúc vào trong giường trùm chăn đi ngủ.

Ngay cả khi cậu Hai Dương trước mặt già trẻ lớn bé tuyên bố bản thân có sự thay đổi này đều nhờ vào người vợ con nhà thư hương tận tình chỉ bảo, một bước nâng danh tiếng của nàng tít tận mây xanh, nàng cũng không tỏ ra chút gì cảm động, dọc đường từ huyện về làng vẫn ra sức ngó lơ chồng.

Dương phát hoảng.

Ánh mắt trập trùng hiểm nguy của Phát cậu có thể không màng, vẻ cay độc đa mang của bà Cả cậu có thể không thán, chỉ có sự hờ hững của nàng... là cậu nặng mang! 

Cậu biết nàng sẽ giận, sẽ oán, nhưng không phải là cái loại tâm tình nhạt phết như nước ốc, lạnh tanh như mưa đá mùa đông này!

Cứ như là nàng sắp sửa từ mặt cậu vậy, dù họ chẳng có chút máu mủ gì cho cam...

Thế là cậu Hai làng ta quyết định... đã trót nặng mang thì cứ mặt dày mày dạn mà bám dính!

___________________________

Viết chương này xong thấy đầu sưng ra ╮(╯▽╰)╭ ╮(╯▽╰)╭ ╮(╯▽╰)╭
Sau này mấy vụ tài tử tài nữ xổ nho này chắc cứ đạo văn của các cụ bưng vô cho lành não quá :)))






trước sau
Bình luận văn minh lịch sự là động lực cho tác giả. Nếu gặp chương bị lỗi hãy "Báo lỗi chương" để BQT xử lý!
Sử dụng gói vip bạn sẽ được phép tắt hết quảng cáo khi đọc truyện