CHƯƠNG 23:JON
Gió mạnh cùng mưa quật lên mặt Jon khi hắn thúc ngựa vượt qua dòng suối nước dâng cao. Bên cạnh hắn lúc này, tổng tư lệnh Mormont giữ chặt chiếc mũ chùm đầu của áo choàng, miệng lầm bầm nguyền rủa thời tiết. Con quạ đang đậu trên vai ông, lông vũ xơ xác như bị nhúng nước và gắt gỏng như chính Hùng Lão (Old Bear). Một cơn gió nổi lên, những tán lá ướt nhẹp bay lả tả xung quanh họ như một đàn chim chết. Khu rừng chết tiệt , Jon buồn rầu nghĩ. Đúng như người ta hay nói: Rừng thiêng nước độc.
Hắn hy vọng Sam đi phía sau vẫn còn trụ được. Sam vốn không phải là kỵ sĩ giỏi ngay trong thời tiết tốt, mà bây giờ, trải qua sáu ngày mưa liên tục, mặt đất trở nên trơn trượt, khắp nơi toàn bùn cùng đá ngầm. Mỗi khi gió thổi, nước mưa theo gió bay vào mắt. Băng tan hòa lẫn nước mưa đổ sông chảy về phía Nam khiến Bức Tường cũng có thể bị sụp. Pyp và Toad nhất định đang ngồi gần bếp lửa trong Phòng khách, nhấm nháp rượu bồ đào cho ấm bụng trước khi ăn. Jon thật ghen tị với họ. Bộ áo lông dê của hắn giờ dang ướt sũng, dính chặt vào người, cổ và vai thì đau đớn bởi sức nặng từ chiếc áo giáp và kiếm, và hắn đang phát ốm vì phải ăn cá tuyết muối, thịt bò muối và bánh mì cứng.
Phía trước một chiếc tù và phát lên âm thanh cảnh báo, những âm thanh đan chéo vào nhau biểu hiện sự cấp bách giữa cơn mưa. “Tiếng tù của Buckwell”, Old Bear tuyên bố, “các chư thần thật tốt, Craster vẫn còn ở đó.” Con quạ của ông cũng đập cánh, kêu lên tiếng “Ngô” trên bả vai và rồi lại rũ lông. Jon đã từng thường được nghe các huynh đệ kể các câu chuyện về Craster và pháo đài của ông. Giờ thì hắn có thể mắt thấy tai nghe. Sau khi chứng kiến bảy ngôi làng vườn không nhà trống, tất cả họ đều bắt đầu hoài nghi liệu pháo đài của Craster có trở thành tử địa như chúng, nhưng có vẻ như họ đã nghĩ lầm. Hắn nghĩ, có lẽ Old Bear cuối cùng cũng tìm được đáp án. Dù sao thì bọn họ cũng sắp thoát được cơn mưa.
Thoren Smallwood bảo đảm rằng Craster là một người bạn của Đội Tuần, dù thanh danh bất hảo. “Ta thừa nhận, người đàn ông đó là người nửa khùng nửa điên,” hắn từng kể với Old Bear, “nhưng ông cũng sẽ như thế nếu sống nửa đời người trong khu rừng sâu nước độc đó. Và ngay cả như thế thì ông ta cũng chưa bao giờ từ chối đón tiếp người của chúng ta, hay có cảm tình với Mance Rayder. Ông ấy luôn cho chúng ta những lời khuyên bổ ích.”
Ngày nào ông ta còn mời chúng ta bữa ăn nóng sốt và chỗ để phơi khô quần áo thì mình đều nghĩ tốt. Dywen nói Craster là một kẻ bất nhất, dối lừa, cường đạo và nhu nhược, ám chỉ rằng con người ông ta hòa lẫn giữa kẻ buôn nô lệ và ma quỷ. “Cái đáng sợ hơn là,” Dywen, kẻ đi rừng sành sỏi lầm bầm giữa những hàm răng giả, “luôn có một tia lạnh lẽo trong con người đó, đúng vậy đấy.”
“Jon,” đại nhân Mormont ra lệnh, “cưỡi ngựa về phía sau thông báo ọi người. Và nhắc họ rằng ta không muốn có bất kỳ rắc rối nào với các bà vợ của Craster. Họ phải chú ý đến tay chân mình và nói chuyện với đám đàn bà đó càng ít càng tốt.”
“Tuân lệnh, đại nhân,” Jon quay ngựa trở lại con đường họ vừa đi. Thật mừng khi nghĩ chỉ ít nữa thôi sẽ không phải mang mặt hứng mưa. Người nào hắn thấy cũng ướt nhẹp hết cả. Mà đấy là mới chỉ đi có nửa dặm trong rừng.
Tại bãi xe đựng quân nhu, Jon đi qua Samwell Tarly, đang đặt một đám cỏ trên yên ngựa. Hắn đang cưỡi một xe bò không móc và dẫn đầu một đám người. Tiếng mưa rơi lộp bộp trên những chuồng quạ khiến đám quạ ở trong kêu quàng quạc phản đối. “Cậu đưa một con cáo ở với bọn chúng à?” Jon bắt chuyện.
Sam ngẩng đầu lên, nước mưa chảy quanh vành nón. “Ồ, xin chào, Jon. Không. Chúng ghét mưa cũng như bọn mình.”
“Cậu thấy thế nào, Sam?”
“Ướt nhẹp,” thằng bé béo nhếch miệng lên cười, “nhưng không có gì nguy hiểm đến tính mạng.”
“Tốt rồi. Lâu đài của Craster ở ngay phía trước. Nếu các chư thần phù hộ thì ông ấy sẽ cho chúng ta ở nhờ qua đêm bên đống lửa ấm áp.”
Sam trông đầy nghi ngờ. “Dolorous Edd nói rằng Craster rất khủng khiếp. Hắn kết hôn với chính con gái mình và tự đưa ra luật riêng trái với quy tắc chung. Dywen còn kể với Grenn rằng ông ta có máu đen. Mẹ ông ta là một dã nhân ngủ với một kỵ sĩ vì vậy ông ta là con ho…” Đột nhiên hắn cảm thấy sượng.
“Một đứa con hoang,” Jon cười lớn, “cậu có thể nói câu đó, Sam. Tôi đã nghe nhiều trước đây rồi.” Hắn thúc ngựa tiến lên. “Tôi cần tìm Hiệp sĩ Ottyn. Nhớ đừng trêu trọc những người phụ nữ quanh Craster.” Hắn nói cứ như thể Samwell Tarly cần những lời cảnh báo ấy vậy. “Chúng ta sẽ nói chuyện tiếp sau khi hạ trại.”
Jon ghìm cương trước Hiệp sĩ Ottyn Wythers khi ông đang xuất lĩnh dẫn đầu đội bảo vệ. Đó là một người đàn ông thấp lùn, cùng niên kỷ với Mormont. Hiệp sĩ Ottyn luôn trông mệt mỏi, ngay cả khi ở Lâu Đài Đen (Castle Black) và cơn mưa rõ ràng đã “cọ rửa” ông ta một cách triệt để. “Tin tức thật tốt,” ông nói. “Sự ẩm ướt đã thấm vào đến tận xương ta, ngay cả cái yên ngựa cũng than phiền rồi.”
Trên đường quay lại, Jon tránh ột đoàn quân lớn đi qua, chọn con đường ngắn hơn đi qua khu rừng rậm. Âm thanh của người và ngựa xa dần, chìm trong sự hoang dã xanh ẩm ướt và rồi hắn nhanh chóng chỉ nghe thấy âm thanh của những giọt nước mưa rơi trên cành, lá và đá. Giờ mới là cuối giờ chiều, nhưng trong rừng đã bắt đầu tối. Jon tìm đường giữa các tảng đá và vũng nước, đi qua những cây sồi khổng lồ, những lính canh mặc đồ xanh xám và những cây gỗ cứng vỏ đen xù xì, những tán lá như những mái che khổng lồ giúp hắn tránh khỏi những hạt mưa nặng hạt rơi trên đầu. Khi hắn cưỡi ngựa vượt qua một cây hạt dẻ với những bụi hoa hồng trắng hoang dại, thì nghe thấy tiếng động dưới những bụi rậm. “Ghost,” hắn kêu lên, “Ghost, đến đây.”
Nhưng người chui ra hóa ra là Dywen, đang cưỡi chung một con ngựa lùn với Grenn. Old Bear thường phái hai tổ kỵ sĩ đi trinh sát cùng nhau, họ sẽ hỗ trợ nhau trong quá trình trinh sát, khi đụng độ với quân địch, và ngay cả khi có khả năng thất thủ thì cũng có ít nhất một người thoát được về để báo cáo tình hình.
“À, đại nhân Snow, là cậu,” Dywennhếch mép cười, hàm răng của ông được làm giả từ gỗ và trông bất đối xứng đến kỳ cục. “Ta và thằng bé này còn tưởng là gặp bọn Người Lạ. Thế nào, lạc mất con sói của cậu à?”
“Nó đang đi săn,” Ghost không thích đồng hành cùng đội quân, nhưng nó cũng không đi quá xa. Mỗi khi họ hạ trại về đêm, nó đều tìm được Jon ở trại của Tổng Tư Lệnh.
“Ta cho rằng nó đi bắt cá, chứ trời đất đầy nước thế này thì săn được gì,” Dywen nói.
“Mẹ tôi luôn nói rằng mưa giúp hoa màu phát triển tốt,” Grenn lạc quan chêm vào.
“Phải, nấm mốc cũng thế,” Dywen nói. “Điều tốt nhất mà một cơn mưa như thế này làm được là nó giúp người ta bớt thời gian tắm rửa,” ông ta cười phá ra nhe hàm răng gỗ.
“Buckwell đã tìm thấy Craster,” Jon kể với họ.
“Và có lạc mất ông ta không?” Dywen cười. “Có nghe thấy chuyện những người trẻ tuổi các cậu đừng có dại mà trêu trọc các bà vợ của Craster không?”
Jom mỉm cười. “Dywen, định một mình ông độc quyền hả?”
Dywen lại nhe răng cười. “Có lẽ ta đang định thế. Craster có mười ngón tay và chỉ một ‘thằng nhỏ’, vì vậy ông ta chỉ có thể đếm đến mười một. Mất vài ba người có lẽ ông ta không phát hiện ra đâu.”
“Thực ra thì ông ta có tất cả bao nhiêu vợ?” Grenn hỏi.
“Nhiều hơn cậu, người anh em. À, mà muốn có bao nhiêu vợ thì cậu sinh ra bấy nhiêu. Snow, con quái vật của cậu kia kìa.”
Ghost chạy tới gần con ngựa của Jon, đuôi dựng đứng, lớp lông trắng lộ ra vẻ dày dặn chống trọi với cơn mưa. Nó di chuyển yên lặng đến nỗi Jon không biết khi nào nó xuất hiện. Con ngựa của Grenn choáng váng khi ngửi thấy mùi của nó, dù đã hơn một năm nay, bọn ngựa vẫn không dễ dàng chấp nhận sự hiện diện của con sói vương này. “Theo tao, Ghost,” Jon hướng lâu đài của Craster đi tới.
Hắn chưa bao giờ nghĩ sẽ tìm thấy một lâu đài đá cách xa Tường Thành đến vậy, nhưng hắn đã tưởng tượng đến một khu rừng bao quanh và một tháp gỗ.
N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Sự thật hoàn toàn trái ngược, những gì họ tìm thấy là một bãi rác, một con lợn, một chuồng cừu trống không, một căn nhà đất sét không cửa sổ không đáng nhắc tới. Căn phòng vừa dài, vừa thấp, làm bằng gỗ thô, trên mái lợp cỏ. Cái ‘pháo đài’ này quả thật không xứng với một ngọn đồi, bao quanh bởi rãnh nước.
Những cơn mưa thường xuyên đã làm xói mòn đất từ đồi xuống con lạch gần đó khiến nó luôn có màu nâu đỏ chảy xuống phía Bắc. Mưa nhiều khiến phù sa đổ xuống nhiều làm con suối trở nên gập ghềnh.
Ở phía Tây Nam hắn tìm thấy một cánh cửa mở có cắm hai đầu lâu thú: Một bên là đầu con gấu, một bên đầu con cừu. Khi cưỡi ngựa đi qua, Jon để ý thấy vẫn còn ít thịt dính trên đầu con gấu. Phía bên trong, đội trinh sát của Jarmen Buckwell và đội tiên phong của Thoren Smallwood đã đem ngựa xếp thành hàng và dựng lều xong. Một chuồng lợn đã nhốt xong ba con lợn béo múp míp. Cạnh đó, một bé gái đang nhổ cà rốt trong vườn, trần truồng trong mưa, trong khi hai người phụ nữ khác đang chuẩn bị thịt lợn. Tiếng la hét chói tai khủng khiếp của đám động vật cứ như thể loài người đau khổ đến cùng cực khiến đám chó săn của Chett điên cuồng sủa lại, nhưng khi nhìn thấy Ghost thì mấy con chó cụp đuôi chạy mất, đám còn lại thì chỉ dám khẽ giọng gầm gừ. Con sói vương thì không thèm để ý đến chúng, như Jon vậy.
À, ba mươi người trong đám chúng ta giờ sẽ được ấm áp và khô ráo đây, Jon cẩn thận nhìn ngôi nhà và ra kết luận. Có lẽ ngôi nhà đó sẽ chứa được đến năm mươi người. Nơi này quá nhỏ để có thể chứa toàn bộ hai trăm người bọn họ, vì vậy đa số sẽ vẫn phải ở bên ngoài. Nhưng cần cho họ ở chỗ nào đây? Mưa đã khiến sân trở nên lầy lội, ngập đến mắt cá chân, bùn nhão nhoét. Có vẻ như đêm nay lại là đêm ảm đạm. Tổng tư lệnh đại nhân đã giao ngựa của mình cho Dolorous Edd. Khi Jon xuống ngựa thì thấy hắn đang bận rửa bùn cho con ngựa của tổng tư lệnh. “Đại nhân Mormont đang ở trong nhà,” hắn thông báo, “ông dặn cậu vào đó. Tốt nhất là để con sói ở ngoài, nó trông đói đến mức có thể ăn hết một trong những đứa con của Craster ấy. À, thật ra mà nói thì tôi cũng thế, nếu được ông ta nấu chúng thành súp nóng. Đi đi, tôi sẽ trông chừng con ngựa. Nếu bên trong có ấm áp và khô ráo thì đừng có kể gì cho tôi biết. Tôi cũng chẳng được mời vào đâu.” Hắn vừa nói vừa lấy lớp bùn ra khỏi móng ngựa. “Trông cái đống bùn này cứ như phân ấy nhỉ? Liệu có phải toàn bộ khu đồi này là phân của nhà Craster không?”
Jon mỉm cười. “À, tôi nghe nói ông ấy ở đây đã lâu lắm rồi.”
“Cậu đừng có chọc tôi nữa, đi gặp Old Bear đi.”
“Ghost, ở lại đây,” hắn ra lệnh. Cửa vào lâu đài của Craster được ghép từ hai mảnh da hươu. Jon vén cửa, khom lưng dưới thanh ngang bước vào. Trước mắt hắn là hai bốn kỵ sĩ thuộc hàng ngũ lãnh đạo đang đứng, ngồi quanh đống lửa ở trong tâm căn phòng bẩn thỉu trong khi dưới chân vẫn là những vũng nước. Căn phòng đầy mùi tro, phân và hôi. Không khí đặc quánh đầy khói nhưng vẫn ẩm ướt. Nước mưa nhỏ từ mái nhà qua lỗ thông khói. Ngôi nhà có một phòng duy nhất cộng với một phòng ngủ trên gác lửng được nối bằng một cái thang lập bập.
Jon nhớ đến nó đã cảm thấy thế nào vào ngay rời Tường Thành: lo lắng như một cô dâu sắp về nhà chồng nhưng khao khát khám phá những điều bí mật và diệu kỳ nơi chân trời xa lạ. À, đây chính là một trong những điều kỳ diệu, hắn tự nhủ, nhìn quanh căn phòng hôi rình và bẩn thỉu. Không khí đầy khói khiến mắt nó toét nước. Thật tiếc Pyp và Toad đã bỏ lỡ, không thấy những thứ này.
Craster ngồi cạnh bếp lửa, ông là người duy nhất thích chiếc ghế của mình. Ngay cả Tổng Tư Lệnh Mormont phải ngồi trên ghế dài với con vẹt đang thì tự lẩm bẩm trên vai. Jarman Buckwell đứng phía sau, nước chảy tong tỏng từ chỗ mẻ của áo giáp và chiếc áo da ẩm ướt sáng, Thoren Smallwood đứng bên cạnh, mặc chiếc áo giáp nặng nề và áo choàng lông chồn màu xám của Hiệp sĩ Jaremy trước đây.
Craster mặc chiếc áo khoác da cừu tồi tàn, cổ tay xơ xác, nhưng chiếc vòng nặng đeo ở cổ tay ánh lên ánh của vàng. Ông có vẻ là vẫn còn rất khỏe, dù bắt đầu bị ảnh hưởng bởi tuổi tác khiến mái tóc xám dần chuyển sang màu trắng. Chiếc mũi tẹt và cặp môi rủ xuống khiến ông trông có vẻ tàn bạo với một cái tai bị thiếu. Vậy ra đây là một dã nhân. Jon nhớ những câu chuyện của Vú Già kể về dân tộc tàn bạo với tục lệ uống máu từ sọ người. Craster có vẻ đang uống bia vàng óng từ một chiếc cốc đá. Có lẽ các câu chuyện này chỉ là bịa đặt.
“Đã ba năm nay ta không gặp Benjen Stark,” ông ta kể với Mormont, “và trung thực mà nói, ta chưa bao giờ nhớ hắn.” Khoảng nửa tá con chó nhỏ màu đen cùng một hai con lợn chạy giữa những dãy ghế, trong khi những phụ nữ trong chiếc áo da hoẵng rách tơi tả đi qua lại để đổi bia, cời lửa, cho cà rốt và hành tây vào nồi.
“Hắn đáng lẽ phải qua đây vào năm ngoái chứ,” Thoren Smallwood nói. Một con chó hít hít chân ông, ông hất chân đá nó khiến nó bay ra, rên rỉ.
Đại nhân Mormont nói: “Ben đang tìm Hiệp sĩ Waymar Royce, người đã biến mất cùng Gared và Will trẻ.”
“À, ta biết