Cô Nguyệt Minh lạnh lùng đáp: “Chỉ là một trận mưa lớn đột ngột, ngươi sao nhát gan thế”.
Ô Tử Hư thản nhiên nói: “Chính vì ta nhát gan, cho nên nghĩ ra kế hoạch cẩn mật chu tường, chưa từng phạm sai lầm. Liên tiếp phạm phải hai sai lầm là chuyện không thể, thế nhưng lại phát sinh trên người ta”.
Bên ngoài mưa gió rào rào, bên trong sảnh đường lại đặc biệt an toàn, bí ẩn và yên tĩnh.
Cô Nguyệt Minh nói: “Ta không phải đến nghe ngươi kể khổ”.
Ô Tử Hư cười cay đắng nói: “Bách Thuần hỏi ta một câu giống thế, người khác chỉ là nhận ra bức ‘cổ chiến xa nữ thần’ của ta rất hấp dẫn. Sự thật ta có thể cho Cô huynh một đáp án đồng dạng, nhưng lại có khả năng sai một ly đi một dặm, sẽ khiến ta cảm thấy không đúng với Cô huynh”.
Cô Nguyệt Minh không có chút nôn nóng nào, hỏi: “Cao tính đại danh của các hạ?”.
Ô Tử Hư ngạc nhiên nói: “Vì sao đột nhiên đối với ta lại có hứng thú? Tiểu đệ bản tính xấu, tự lập chí làm đạo tặc, cải tên thành Ô Tử Hư, lấy ý Tử hư ô hữu (không tồn tại). Đây là nhân vật mà bản thân ta vọng tưởng sẽ trở thành, đợi sau khi ta rửa tay chậu vàng, Ngũ Độn Đạo sẽ biến thành nghi ảo nghi thật, giống như là Tử hư ô hữu”.
Cô Nguyệt Minh bình tĩnh nói: “Ô huynh có thể nói ngắn gọn không?”.
Ô Tử Hư vội nói: “Cả chuyện này phải nói từ lúc ta phạm sai lầm đầu tiên, ta chạy trốn thục mạng, dùng hết bản lãnh, cuối cùng chạy đến bờ nam Đại Giang, hoảng loạn không nhắm được đường đi, chỉ biết chạy vào hoang sơn dã lãnh, nào biết địch nhân lại có thể truy sát sau ta, đến khi ta trượt chân rơi xuống thủy đàm, bị dòng nước cuốn đi không biết bao xa, lúc tỉnh lại phát giác bản thân đang ở một địa phương vô cùng cổ quái”.
Cô Nguyệt Minh nhíu mày nói: “Dựa vào thân thủ của Ô huynh, cho dù truy đuổi ngươi chính là Khâu Cửu Sư, làm sao có thể ở hoang sơn dã lãnh rừng cây rậm rạp vẫn theo sát sau ngươi?”.
Ô Tử Hư than: “Ta cũng không minh bạch như Cô huynh, ly kỳ nhất là ta không thấy được bóng người, chỉ nghe tiếng vó ngựa. Con mẹ nó! Ngựa làm sao vượt núi băng khe được chứ? Sau đó nghĩ lại, tình huống có chút giống như bị quỷ mê. Ài! Ta không biết đắc tội với thần thánh phương nào, chuyện sai lầm chuyện ngu ngốc đều làm hết cả”.
Cô Nguyệt Minh hít sâu một hơi, hỏi: “Ngươi bị cuốn đến địa phương thế nào?”.
Trên mặt Ô Tử Hư lộ ra thần tình hồi tưởng, hai mắt chấp chới thần sắc kinh hãi, nói: “Đó là một nơi núi đồi chập chùng, ao hồ đầm lấy chằng chịt, đầy rẫy cổ thụ hoa lá kỳ dị, vĩnh viễn được bao phủ bởi một tầng sương mù, ta còn cho rằng bản thân chết rồi, đang đến thế giới U minh”.
Cô Nguyệt Minh chấn động thốt: “Vân Mộng Trạch!”.
Với sự lãnh tĩnh của y, vẫn không kiềm được rợn tóc gáy, y ẩn ước cảm thấy sự suy đoán của Nguyễn Tu Chân là có đạo lý, đối diện với một người dường như không có liên quan này, rất có thể có liên hệ vi diệu với y.
Ô Tử Hư lắc đầu nói: “Không phải Động Đình Hồ, là địa phương phía đông Tương Thủy mặt nam Động Đình Hồ, ta sau đó mới biết rõ vị trí của ta”.
Cô Nguyệt Minh không giải thích sự phân biệt giữa Động Đình Hồ và Vân Mộng Trạch mà y biết, im lặng lắng nghe.
Ô Tử Hư tiếp tục: “Ta sau khi hồi phục tri giác, phát hiện bản thân nằm trên bùn lầy bên cạnh một nhánh sông chảy xiết, nửa thân dưới còn dầm trong nước, tay chân tê dại, không thể di động”.
Cô Nguyệt Minh gật đầu nói: “Nhánh sông đó nhất định là Vô Chung Hà”.
Ô Tử Hư kinh ngạc hỏi: “Cô huynh không phải người kinh sư sao? Làm sao có thể hiểu rõ sông ngòi nơi phương Nam xa xôi này như thế?”.
Cô Nguyệt Minh hờ hững thốt: “Nói tiếp đi!”.
Ô Tử Hư hiển nhiên đang chìm đắm trong hồi ức, không vì ngữ điệu như mệnh lệnh của y mà không vui, nói: “Đúng vào thời khắc đó, ta nghe được tiếng chân của một bầy ngựa, còn có thanh âm vang vang của tiếng bánh xe nghiến đất”.
Cô Nguyệt Minh ngạc nhiên nói: “Chuyện này không thể có được”.
Ô Tử Hư than: “Lời của ngươi chính là ý nghĩ trong lòng ta lúc đó, ta cố sức ngẩng đầu nhìn về trước, đại đội nhân mã đang đi ở phía trước, chiến sĩ toàn thân mặt giáp trụ cổ quái, lại không có một người nào chú ý đến sự tồn tại của ta. Cũng vào lúc này, ta thấy được nàng”.
Đột nhiên cuồng phong nổi lên, gió cuốn theo mấy hạt mưa từ ngoài mặt hồ vào trong sảnh, trời đất trong ngoài vào lúc này như hợp thành một. Mưa gió đến đi rất nhanh, lại khôi phục tình cảnh như trước.
Cô Nguyệt Minh hít sâu một hơi, hét lên: “Không cần quan tâm! nói tiếp đi!”.
Ô Tử Hư kinh hoảng còn chưa bình tĩnh, nói: “Nàng điều khiển Cổ chiến xa, người mặt y phục hoa lệ như trong bức vẽ của ta, nhìn đến ta, tiếp đó đầu ta giống như bị sét đánh trúng, lúc ấy mất đi thần trí. Đến khi tỉnh lại, tuy vẫn ở cạnh sông, lại không phải là địa phương đó”.
Cô Nguyệt Minh cảm thấy bản thân dường như dầm mình trong mưa gió ngoài Các, không thể bảo trì tâm cảnh bình hòa, nhưng lại không nắm được nguyên do khiến tâm thần bất ổn.
Ô Tử Hư hạ thấp giọng hỏi: “Ta liệu có phải nằm mộng hay không?”.
Cô Nguyệt Minh thở ra một hơi, nhằm xoa dịu sự căng thẳng khó hiểu trong lòng, thành thật nói: “Ta không biết, bản thân ngươi chắc biết rõ”.
Ô Tử Hư nói: “Ta thật không thể phân biệt. Từ thời khắc đó trở đi, tất cả đều khác lạ, giống như có thần linh hoặc lệ quỷ đang dẫn đường ta, ta có thể đang trong ác mộng, giữa ban ngày ban mặt nhìn thấy ảo tượng, vận khí may mắn một cách khác thường, lại không ngừng làm chuyện ngu xuẩn. Nhưng chuyện khiến ta kinh hoảng bất an nhất đó là ta bằng vào một lượng bạc ở đổ trường thắng liền bảy ván, thắng được bốn trăm chín mươi chín lượng bạc, công thêm một lượng của ta, tổng cộng năm trăm lượng. Ài! Trời phật ơi, năm trăm lượng chính là kinh phí dự phòng thường xuyên cho hành động trộm bảo của ta, không nhiều cũng không ít, Cô huynh nói ta xem rốt cuộc chuyện này là thế nào đây”.
Cô Nguyệt Minh phát lãnh trong lòng, tim như ngừng đập.
Lời của Nguyễn Tu Chân lại vang lên bên tai.
“Nếu ta nói địch thủ chân chính của bọn ta, tuyệt không phải là Ngũ Độn Đạo, mà là lệ quỷ thần linh vô hình vô ảnh, có thể khống chế vận mệnh người ta, có lẽ khiến Cô huynh có kiên nhẫn nghe chăng?”.
Ô Tử Hư nói: “Lời của ta từng câu đều là thực. Ài! Ta cũng tự biết hiện giờ đã giam chân dưới bùn, cơ hội chạy khỏi sự truy bắt của người ta càng lúc càng xa. Đương nhiên ta không chịu ngồi yên chờ chết, ít nhất vẫn cảm thấy bản thân hiện tại đang ở cảnh giới đẹp nhất của sinh mạng, vừa sợ vừa mừng, kích thích khẩn trương, muôn màu muôn vẻ. Ta không phải muốn giành được sự đồng tình của Cô huynh, chỉ là hy vọng Cô huynh có thể cho ta minh bạch một chuyện, Cô huynh vì sao có thể vì một bức tranh mà đến gặp ta?”.
Trong lòng Cô Nguyệt Minh trào lên một cảm giác vô cùng kỳ dị nhưng không thể minh bạch, nói: “Nói ra có tác dụng gì với ngươi chứ?”.
Ô Tử Hư khẩn cầu nói: “Ta hiểu Cô huynh, không phải giống ta thích nói chuyện, càng không thể thấu lộ nội tâm với người khác. Thế nhưng ta chỉ là người tính mệnh khó giữ, tùy lúc có thể đi đời nhà ma, Cô huynh coi như thương xót ta, để ta chết cũng làm một con quỷ minh bạch chứ không phải quỷ hồ đồ”.
Cô Nguyệt Minh hỏi: “Hỏi qua Bách Thuần chưa?”.
Ô Tử Hư đáp: “Còn chưa có cơ hội”.
Ánh mắt Cô Nguyệt Minh nhìn ra mưa gió ngoài cửa sổ, hai mắt phát ra thần sắc mê man, chậm rãi nói: “Ô huynh có cảm giác bị quỷ mê, ta hiện tại cũng bắt đầu có cảm giác cổ quái như thế. Ô huynh đặt bút vẽ cổ chiến xa mỹ nữ, họa pháp hết sức truyền thần, vào lúc ta nhìn vào nàng, nàng giống như bừng sống lại, dùng đôi mắt đó của nàng nhìn ta, lúc đầu trong mắt như có cừu hận bốc cháy, chớp mắt cừu hận tan biến đi, thay vào đó là sự thâm tình quan tâm, hiểu và thương xót, khiến ta không kiềm chế được. Nàng tựa như hết sức quen thuộc ta, còn cảm giác của ta đối với nàng cũng vượt quá tình cảm mà kẻ thưởng thức nên có, ta không thể xem nàng chỉ là một bức tượng nữa”.
Ô Tử Hư ngẩn ra nhìn y, nhất thời hai người đều cảm thấy không thể nói gì.
Cô Nguyệt Minh cầm lấy trường kiếm để trên bàn, đeo vào trên lưng.
Ánh mắt Ô Tử Hư dừng trên túi da ở bên kia, hỏi: “Bên trong phải chăng có một thanh kiếm khác?”.
Cô Nguyệt Minh kinh ngạc hỏi: “Ô huynh làm sao biết được chứ?”.
Ô Tử Hư hỏi: “Có thể cho tiểu đệ xem qua không?”.
Cô Nguyệt Minh thoáng động lòng, đối phương là chuyên gia trộm bảo, nhận thức đối với cổ vật chắc vượt hơn hẳn người thường, nói không chừng có thể nhìn ra được lại lịch bất minh của cổ kiếm đó, liền không hỏi thêm, một tay cầm lấy túi da, tay kia rút cổ kiếm, đưa cho Ô Tử Hư.
Ô Tử Hư tiếp lấy cổ kiếm, hai tay nâng kiếm cúi đầu quan sát, hai mắt loang loáng dị quang, trầm giọng nói: “Nếu như ta không có nhìn lầm, kiếm này chắc là thiết kiếm ở thời kỳ đầu, thành khí thuộc thời đại Chiến Quốc, hình dáng chất liệu đúng quy cách, sắc bén vô cùng, ẩn hiện kỳ quang, tuy cũ mà mới, tuyệt không phải là vật thường, nhiều khả năng do bậc thầy đúc kiếm Sở quốc tạo thành”.
Cô Nguyệt Minh chấn động trong đầu, trước đây tuy có nghĩ qua kiếm này không phải như lời Phụng công công nói, nhưng vẫn chưa từng nghĩ qua xa xưa đến tận thời đại Chiến Quốc, còn là sản phẩm của Sở quốc. Lại là Sở quốc, rốt cuộc là phát sinh chuyện gì?
Lên tiếng hỏi: “Ô huynh dựa vào đâu mà suy đoán là kiếm của Sở quốc vậy?”.
Ô Tử Hư hai tay nâng cổ kiếm trả lại, đáp: “Ở thời đại Chiến Quốc, thiết kiếm của Sở quốc vang danh khi đó, Uyển lại là vùng nổi danh Sở quốc về quặng sắt, đã sản xuất ra thiết kiếm tinh xảo mà vang danh. Như thế thiết kiếm ưu việt, chỉ có người Uyển mới tạo ra được”.
Cô Nguyệt Minh cất cổ kiếm vào trong túi da, vươn người đứng lên, thuận tay đeo túi da vào eo.
Ô Tử Hư đứng dậy hỏi: “Mưa càng lúc càng lớn, Cô huynh đâu cần gấp gáp như thế?”.
Cô Nguyệt Minh nói: “Cho ta một cái dù là được, ta phải đi gặp một người”.
o0o
Xe ngựa chạy đến trước Hồng Diệp Lâu, Bách Thuần nhìn qua rèm thấy thân ảnh Cô Nguyệt Minh đang ly khai.
Trên con đường thênh thang đang bị gió mưa tàn phá, thân ảnh y vừa toát lên vẻ cô đơn cùng cực, lại vừa kiên cường vững chắc. Dưới tầm nhìn mơ hồ trong mưa lớn, tay trái y giơ cao cây dù, thân hình cao cao tựa như có thể vọt lên bất cứ lúc nào, nhịp chân chắc chắn sung mãn, không bị tác động bởi thời tiết chút nào, khuất dần vào màn mưa mù mịt.
Trong lòng Bách Thuần dâng lên cảm giác khó hình dung được, tình cảnh trước mắt khiến nàng liên tưởng đến tư thế Cô Nguyệt Minh quan sát bức vẽ trong Tình Trúc Các của nàng, đồng thời dẫn dắt hồi ức ẩn sâu trong lòng nàng mà nàng sớm đã quên mất, mãi đến lúc này vẫn không nhớ ra được. Xe ngựa tiến vào Hồng Diệp Lâu.
Nàng hoàn toàn bị một cảm xúc khác làm mê man, sự ưu thương và bất lực trào dâng chiếm cứ tâm thần.
Nàng chưa từng cảm thấy buồn bã như thế. Từ trước đến nay, nàng là người thị phi phân minh, nhận định rõ giới hạn giữa đúng và sai, về phương diện này chưa từng mất phương hướng. Có thể Khâu Cửu Sư lại vô tình bóc ra chân tướng của phương diện này, giới hạn đúng và sai là có thể mơ hồ không rõ. Thế giới trước giờ nàng có, là an toàn, đơn giản và rõ ràng minh bạch.
Nàng không thể tiếp thụ Khâu Cửu Sư vì đạt được mục đích và lý tưởng, hy sinh một người không nên hy sinh, thế nhưng nàng cũng hiểu sự thống khổ và mâu thuẫn trong lòng của Khâu Cửu Sư, vì mục tiêu to lớn ngày sau mà chấp nhận trả giá đắt.
Sinh mệnh lúc nào cũng bất lực giống như thế sao?
o0o
Mọi con đường đều biến thành sông.
Mưa lớn phủ trùm trời đất, hạt mưa theo từng trận từng trận cuồng phong đập xuống mặt đất, tạo thành vô số hoa nước, nước trút xuống từ mái nhà hai bên đường như thác, trời đất lẫn lộn cùng nhau.
Nội tâm của Cô Nguyệt Minh đang giống như trời đất bên ngoài, cũng nổi cuồng phong và dầm trong mưa lớn.
Từ khi hiểu biết đến giờ, y lần đầu cảm thấy mất phương hướng.
“Ngươi tin truyền thuyết thần ma không?”.
Vấn đề đó của Phụng công công lại vang lên trong lòng y. Từ khi bắt ngờ gặp được nữ lang đó ở bến đò, mọi chuyện phát sinh sau đó, đều giống như chỉ hướng đến một đáp án. Đó là trong cổ thành tại Vân Mộng Trạch, đích xác có một cỗ lực lượng vượt xa người thường, lực lượng đó không chỉ có thể khiến cổ thành tiêu thất vô tung, còn có thể ảnh hưởng đến người và việc trong và ngoài Trạch. Lực lượng siêu phàm đó đang dệt một tấm lưới mệnh vận kỳ dị, mục đích của nó thì không thể suy đoán được.
Y vì Sở hạp mà từ kinh sư xa xôi ngàn dặm đến nơi này, có phải là một mắt xích trong kế hoạch của nó hay không? Ngũ Độn Đạo lại cùng y và cổ thành có quan hệ thế nào?”.
Cô Nguyệt Minh từ hẻm nhỏ bước ra, cách phía trước hơn ngàn bước là một con sông vắt ngang, một cây cầu cong dài chừng năm mươi bước được xây dựng bắt qua sông, trong mưa lớn cùng con sông nhỏ kết hợp hoàn