Suy nghĩ một hồi, Ninh Thần cảm thấy rằng: nếu mình hồi cung ngay lúc này thì 80 – 90% là ăn ngay vài gậy vào mông.
Trưởng Tôn đang tức giận, giờ mà hắn quay về vậy chẳng phải là muốn ăn đòn hay sao?
Trong lúc bất chợt, Ninh Thần bỗng nhớ tới chuyện mà Lê Nhi từng kể cách đây 2 ngày.
Xoay nhẹ tròng mắt, hắn đi tới cạnh Thanh Ninh, nhỏ giọng nói: “Thanh Ninh tỷ, nói với tỷ chuyện này.”
Thanh Ninh nhướng mày, đáp: “Nói!”
Kề sát vào tai Thanh Ninh, hắn ngửi thấy một mùi thơm giống như hương lan vậy.
Nhanh chóng bỏ đi ý nghĩ vẩn vơ trong lòng, hắn nghiêm túc nói vài câu.
“Ngươi nói thật ư?” Thanh Ninh nghiêm mặt hỏi.
“Trăm phần trăm” Ninh Thần gật đầu xác định.
“Được rồi! Ta về bẩm báo trước.
Về yêu cầu của ngươi, ta không thể làm chủ được, phải xem ý của nương nương thế nào.”
Chuyện can hệ trọng đại, Thanh Ninh phải vội vàng hồi cung.
Nhưng vừa đi hai bước, nàng ngừng lại, quay sang cảnh cáo Ninh Thần một câu: “Ở yên tại đây! Đừng có định tiếp tục chạy trốn!”
“Rồi! Rồi!” Ninh Thần vội vàng gật đầu, giả bộ ngoan ngoãn, nhưng lại thầm cân nhắc chuyện này.
Hắn có nêm nhanh chóng chạy trốn hay không? Nếu cứ mong chờ vào ý chỉ của Trưởng Tôn, vậy cũng quá mông lung rồi.
Thanh Ninh rời đi, còn Ninh Thần lại lôi kéo Lê Nhi tiến về phía hậu viện.
“Ngươi rốt cuộc là ai?” Lê Nhi hất tay Ninh Thần ra, lui về phía sau hai bước, cất giọng hỏi trong khi hốc mắt đã dần đỏ hoe.
“Nhỏ giọng một chút!” Ninh Thần nhìn trái nhìn phải, cẩn thận đáp.
“Ngươi đừng nghĩ ta là kẻ ngốc! Cô nương kia, vừa nhìn thì biết đó không phải là người bình thường rồi.
Hơn nữa, các ngươi cứ lặp đi lặp lại hai chữ ‘nương nương,’ đừng có nói với ta rằng đó chỉ là một cái tên thôi nhé.” Nói xong, nước mắt lã chã rơi xuống trên gương mặt của Lê Nhi; dù nàng có muốn nín lại thì cũng không nón được.
Ninh Thần không thể để tiểu nha đầu khóc lóc như vậy được, vậy bản thân hắn cũng quá cầm thú rồi.
Bất đắc dĩ là thế, hắn đành kể sơ qua việc bản thân mình nhập cung và xuất cung cho Lê Nhi nghe.
Đương nhiên, hắn giấu nhẹm mọi chuyện liên quan đến việc bản thân giả làm thái giám và Mộ Thành Tuyết, còn uyển chuyển “biến tấu” quá trình tiến cung một chút.
Về việc chạy trốn mà giả mạo là phụng mệnh xuất cung, hắn lại viện cớ là do làm hư hỏng đồ vật, thế nên không dám quay về.
Không phải cố ý giấu diếm, mà do những vấn đề này liên lụy đến quá nhiều người, chứ không riêng gì bản thân hắn.
Một khi sự tình bị bại lộ, những kẻ biết chuyện đều sẽ không có kết cục tốt đẹp.
“Vậy vừa rồi tại sao nàng lại quay về một mình?” Nghe kể chuyện như thế, Lê Nhi cũng quên luôn là bản thân đang tức giận, vừa nức nở vừa hỏi.
Ninh Thần sờ đầu nàng, nhẹ giọng nói, “Hai ngày trước, chẳng phải ngươi từng kể cho ta nghe việc Chân Cực quốc vừa đặt ra một câu hỏi hóc búa cho Đại Hạ à? Ta dùng đáp án của câu hỏi ấy để đối lấy một ân điển xuất cung.”
Nói xong câu cuối cùng, Ninh Thần bắt đầu cảm thấy không vui dần.
Cảm giác không thể nắm giữ vận mệnh trong tay quả thật khiến người ta khó có thể tiếp nhận được.
Nhưng hiện thực chính là như thế, hiện giờ hắn không thể nào nắm giữ tương lai của bản thân trong tay mình.
“Ngươi thật sự phá giải được nan đề của sứ giả Chân Cực quốc à?”
Lê Nhi không nhận ra vẻ bất đắc dĩ trong lời nói của Ninh Thần, nhưng lại vô cùng ngạc nhiên khi hắn có thể biết cách phá giải câu đố hóc búa kia.
Theo góc nhìn của nàng, không ai có thể phá giải nổi câu hỏi hóc búa mà sứ giả Chân Cực quốc đặt ra.
Ninh Thần ổn định tinh thần lại, nhẹ nhàng cười và trả lời, “Trên đời này, chẳng có người hay sự vật, sự việc nào hoàn mỹ cả.
Bất luận cái gì hoàn mỹ vô khuyết đều là chờ đợi có người phá giải ra mánh khóe trong đó mà thôi.
Trông có vẻ như chẳng có phương pháp nào đủ sức phá giải câu đố đến từ vị sứ giả Chân Cực quốc kia, nhưng trên thực tế lại là sơ hở trăm bề, ai nấy đều có thể thực hiện thành công.”
“Ta đâu có làm được!” Lê Nhi bĩu môi, cố gắng cãi ngược.
“Đó là do ngươi ngốc!” Ninh Thần trêu ghẹo.
...!
Kể từ khi sứ giả Chân Cực quốc đến Đại Hạ, sau khi hai bên cãi nhau gần nửa tháng hơn thì cuối cùng bọn họ mới chịu nói rõ mục đích tới đây.
Chuyến đi này, là vì quốc chủ của Chân Cực quốc muốn khẩn thỉnh kết hôn với công chúa của Đại Hạ.
Đây vốn cũng không phải là chuyện lớn gì.
Trong dòng dõi Hoàng thất, có rất nhiều nữ tử đến độ tuổi lập gia đình.
Theo thường lệ, chỉ cần Hạ hoàng phong cho danh hào công chúa, kế tiếp bèn gả đi là được.
Thế nhưng mà, sứ giả Chân Cực quốc lại yêu cầu người xuất giá phải là một cô con gái ruột thịt của Hạ hoàng.
Do đó, sự kiện lần này không còn là chuyện nhỏ nữa rồi.
Hạ hoàng có nhiều con gái, nhưng chỉ có duy nhất một vị công chúa chân chính đủ tuổi gả chồng.
Đó chính là Cửu công chúa Hạ Hinh Vũ.
Năm đó, sau khi hạ sanh Cửu công chúa thì Hoàng quý phi bất hạnh qua đời, để lại hai đứa bé - một trai một gái - không nơi nương tựa.
Trưởng Tôn không đành lòng, thế nên mới mang hai đứa nhóc ấy về, tự mình nuôi nấng, coi cả hai như con ruột.
Năm nay, Hạ Hinh Vũ vừa qua 16 tuổi, kế thừa dung nhan tuyệt sắc của Hoàng quý phi, duyên dáng yêu kiều, có thể được xem là một viên minh châu sáng chói nhất của Đại Hạ.
Yêu cầu của sứ giả Chân Cực quốc đã khiến Hạ hoàng tức giận, nhưng bên cạnh cơn tức giận ấy lại bao hàm một cảm giác cực kỳ bất đắc dĩ.
Hiện nay, Đại Hạ đang đứng trước mối họa ngoại xâm nghiêm trọng.
Vương đình Cổ Mông ở phương Bắc đang lăm le xuất binh bất cứ lúc nào, trong khi Vĩnh Dạ Thần Giáo từ phương Tây vẫn luôn chờ đợi cơ hội nhúng tay vào Trung Nguyên một lần nữa.
Tuy Đại Hạ hùng mạnh, cũng khó mà chịu nỗi khi phải dụng binh 3 đường.
Mà vấn đền càng khiến cho Hạ hoàng không thể chịu đựng được chính là, bên cạnh việc cầu thân thì sứ giả Chân Cực quốc lại đề xuất Hạ hoàng nhượng lại Bạch Nhược Nguyên, khu vực giáp ranh của 2 nước, để làm của hồi môn cho công chúa xuất giá.
Ai cũng biết Bạch Nhược Nguyên là nguồn quặng sắt quan trọng nhất của Đại Hạ.
Bốn phần mười binh khí và áo giáp của tướng sĩ Đại Hạ đều có xuất xứ từ đây.
Một khi nhường ra Bạch Nhược Nguyên, vậy chẳng khác gì cắt đứt huyết mạch của Đại Hạ.
Dĩ nhiên, Hạ hoàng sẽ không đồng ý, quả quyết cự tuyệt.
Đương nhiên, sứ giả Chân Cực quốc cũng không ngu ngốc đến mức cho rằng Hạ hoàng sẽ đồng ý một yêu cầu vô lễ như thế.
Mục đích chính của y cũng không phải chuyện này.
Mặc cả một phen, song phương đều nhượng bộ một bước.
Dùng 20.000 chiến mã để đánh cuộc, sứ giả Chân Cực quốc đặt ra ba vấn đề nan giải liên quan đến dũng khí, trí tuệ và vận may.
Nếu Đại Hạ thua, vậy không cần sang nhượng Bạch Nhược Nguyên, nhưng phải nhường quyền sử dụng Bạch Nhược Nguyên trong 3 năm.
Lấy lùi làm tiến, tên sứ giả kia sử dụng rất nhuần nhuyễn.
Y nắm được nhược điểm không muốn khai chiến lập tức của Đại Hạ vào lúc này, sau đó còn cố ý đồn đãi vụ cược này cho cả thiên hạ đều biết.
Mục đích đằng sau hành động ấy chính là để tạo áp lực cho Đại Hạ.
Chỉ cần tiến lui thích hợp, Đại Hạ không thể không thỏa hiệp.
Không ngoài dự đoán, Hạ hoàng đã đồng ý.
Đồng thời, vị Hoàng đế kia còn chèn thêm một điều kiện vào.
Nếu Chân Cực quốc cược thua, Đại Hạ sẽ là phe quyết định chọn ai là công chúa gả đi.
Về việc này, sứ giả Chân Cực quốc cũng không hề dị nghị gì.
Mục đích của bọn họ chính là Bạch Nhược Nguyên; về phần cầu hôn công chúa, đó chỉ là một cái cớ để giành lấy Bạch Nhược Nguyên mà thôi.
Hạ hoàng cũng có cân nhắc riêng của bản thân.
Sở dĩ Đại Hạ kiêng kỵ Vương đình Bắc Mông như thế, 90% là do đội quân thiết kỵ của bọn họ.
Tuy Đại Hạ cực kỳ mạnh mẽ, nhưng lại có một nhược điểm trí mạng.
Đại Hạ không có ngựa!
Đây không phải là không có giống ngựa phổ thông, mà là không có chiến mã.
Vương đình Bắc Mông sinh sống bằng hình thức du mục, có dân cư cường tráng mạnh mẽ, biết cưỡi ngựa, lại giỏi tài bắn cung.
Không những thế, Hãn Huyết mã của bọn họ lại là giống ngựa độc đáo, vô cùng hiếm có.
Tỷ lệ nhân giống của loại chiến mã ấy tại Vương đình là rất cao, trong khi Đại Hạ lại cực kỳ kém cỏi ở