Lần đầu tiên biết đến việc này, cộng thêm linh tính nhạy bén của Thống lĩnh Nhạn Quân mách bảo, Khung Dực quyết điều tra kỹ hơn.
Hắn không theo đoàn thương nhân Đại Thương trở về ngay trong đêm mà nán lại trong bản, giả say rượu, ngồi uống hết mười vò rượu nếp mật với một nhóm người Hồ, người Dao Tán, cuối cùng moi ra một tin cực kỳ quan trọng.
Trong tất cả những bộ tộc trên núi đều lưu truyền một lời sấm về Hỏa Xà.
Không những vậy, lời sấm này còn nhắc đến vận mệnh Đại Thương.
Tuyết Nhạn giấu Hỏa Xà.
Hỏa Xà xuất sơn, tộc Hồ sẽ vong, Đại Thương cũng diệt.
"Mình nói cho người nghe, lời sấm này có từ thời ông tổ ông cố của mình rồi.
Truyền tới đời của mình, chỉ như là chuyện dọa con nít.
Trước giờ mình chưa từng gặp ai tận mắt nhìn thấy Hỏa Xà cả.
Người nghe vậy thôi, không cần sợ đâu." Anh bạn Hồ tộc khà khật vỗ vai Khung Dực mà nói.
"Bậy nào, già làng của tộc Dao Tán bọn tao tin lắm, mày đừng có nghe nó."
"Ồ, sao vậy?" Khung Dực lại mở một vò rượu mật, chất rượu sóng sánh đậm đà, thơm lựng.
"Trong lời sấm đâu có nhắc tới tộc Dao Tán?"
"Lời sấm này tộc nào cũng có, tộc của ai người nấy tự thay tên vào thôi, hức!" Gã Dao Tán đã say mềm.
"Tao say rồi, không...!không uống nữa, hức."
Sau lần đó về, Khung Dực cho người đi điều tra lại, quả nhiên trong những người già và đám thương nhân của Khúc Băng cũng có không ít người từng nghe qua câu chuyện trên.
Hắn trầm ngâm một hồi, sau cùng vẫn viết một phong thư gửi cho phụ hoàng và Khung Tuấn, báo cáo lại sự việc trên.
Phong thư đó đi rồi, mấy tháng sau hắn mới nhận được hồi âm.
Kinh đô chỉ ghi vỏn vẹn một câu:
Đã biết, về kinh nói sau.
Khung Dực thấy khó hiểu, thế là vẫn lưu tâm việc này, thỉnh thoảng sẽ lại lôi Kỷ Phong giả dạng thương nhân lên núi nghe ngóng tình hình.
Lần nọ, bọn hắn may mắn gặp được một chợ phiên lớn, chỉ họp ba tháng một lần.
Chợ vô cùng náo nhiệt, bày bán cơ man nào là khoáng sản, bảo thạch, trang sức làm từ kim loại và đá quý đủ màu.
Lúc Kỷ Phong sà vào sạp bán những chiếc dao găm cán bằng đá chạm khắc tỉ mỉ, Khung Dực lại bị một khối đá thô thu hút.
Đó là một khối đá không to lắm, chưa mài giũa qua, có vẻ như vừa xẻ ra rồi được đem rao bán ngay.
Thịt khối đá có màu lam trong trẻo, nhẹ nhàng, nhìn qua đã biết là hàng thượng phẩm, nếu đem cắt mài thành trang sức, chắc chắn sẽ vô cùng quý hiếm, xinh đẹp.
Khung Dực đem hai bao lúa mạch lớn ra đổi, không đủ.
Hắn lột đôi khuyên tai bằng vàng ròng mà hắn hay đeo xuống, vẫn chưa đủ.
Rốt cuộc sau một hồi kì kèo ngã giá, cộng với sự trợ giúp của Kỷ Phong, lão già người Hồ lẳng lặng chỉ tay vào đôi ủng da thượng hạng của Khung Dực.
Thành giao.
Hôm đó, vị Thống lĩnh Nhạn Quân đi chân trần về lại thị trấn, khi đến nơi thì hai bàn chân đã sưng phồng, rướm máu, thế nhưng hắn lại cứ ôm khối đá màu lam kia mãi không thôi, vẻ mặt cực kì hài lòng.
Chỉ có Kỷ Phong, suốt cả đường đi về vẫn càm ràm tiếc rẻ đôi ủng hạ mát đông ấm kia.
"Ngài rốt cuộc vì sao mua nó hả?"
"Thấy đẹp thì mua thôi!" Khung Dực nhún vai.
"Mua rồi giờ làm gì với nó đây? Cho người mài thành ngọc bội, trang sức?"
Khung Dực gật đầu: "Được, về thị trấn tìm cho ta vài tiệm làm trang sức tốt đi."
Thật ra sau đó, chuyện khối đá kia đã bị Kỷ Phong vứt ra sau đầu, hắn căn bản không còn thời gian mà nghĩ tới.
Nguyên nhân là khi trở về Khúc Băng, Nhị vương tử nhà hắn lại đẩy nhanh quá trình xây thành, huấn luyện dân binh.
Dưới yêu cầu cao như núi và kỷ luật thép của Khung Dực, thay vì mất cả năm mới tôi luyện ra một lứa dân binh coi cho được thì bây giờ, họ chỉ mất tầm tám tháng.
Khung Dực và Kỷ Phong không hề biết rằng, chỉ vài ngày sau khi bọn họ rời khỏi chợ phiên trên núi kia, đôi hoa tai vàng ròng và cặp ủng da thượng hạng của Khung Dực đã lưu hành tới tay một người.
Người đó là một trong các vị đương gia chủ chốt của Hồ tộc, có thể xem là cánh tay phải của tộc chủ Hồ Kha.
Hắn xuất thân là trẻ mồ côi lưu lạc khắp nơi, run rủi thế nào đến tận Tuyết Nhạn, may mắn được Hồ Kha nhặt về nuôi, dần dần lại được hắn hết mực tin tưởng, còn ban cho họ Hồ.
Hắn theo họ của tộc chủ, chọn cho mình cái tên Nhất Niệm.
Hồ Nhất Niệm.
Hồ Nhất Niệm cầm trên tay đôi hoa tai vàng ròng, xem xét kỹ lưỡng.
Chế tác tinh xảo, vàng nguyên chất không pha tạp, lại có khắc hoa văn mặt trăng.
Đôi ủng da kia cũng là hàng thượng hạng dùng cho tướng lĩnh cấp cao trong quân đội, thương nhân bình thường không thể nào có được.
Hắn trầm mặc suy nghĩ một lúc rồi lấy ra một cuộn da nhỏ, cầm bút viết lên một dòng chữ ngắn gọn, lại gói cuộn da vào móng của liệp ưng mình nuôi, nâng tay thả đi.
Tới mùa thu, đội dân binh của Khúc Băng đã cứng cáp, việc tuần tra và bảo vệ được kéo dài ra tận chân núi Tuyết Nhạn, thậm chí họ còn cùng Nhạn Quân đi tuần trên sườn núi bên này.
Khung Dực hài lòng, bắt đầu tiến hành bước tiếp theo của kế hoạch phòng thủ: nối liền mạch quân sự Khúc Băng với tuyến đồn trú của dải Chinh Sa.
Một sáng mùa thu của năm thứ hai, Khung Dực để lại Kỷ Phong trấn giữ Khúc Băng và Tuyết Nhạn, đem theo một đội thân binh chỉ tầm trăm người, cưỡi khoái mã nhắm hướng mặt trời mọc mà đi.
Dải Chinh Sa nằm ở phía đông của Đại Thương, là một dải đất hẹp hình dáng hơi cong cong như trăng non, trải dài từ bắc xuống nam, quanh năm khô cằn, chỉ có gió và cát.
Bọn họ ngày đi đêm nghỉ, đến sáng sớm ngày thứ tư thì đến được đồn trú đầu tiên của Chinh Sa, nằm giữa mênh mông cát vàng.
Tới nơi, Khung Dực miễn luôn lễ nghi đón tiếp phiền phức của quan trấn thủ, lập tức vào trại, cùng các tướng sĩ cấp cao mang theo bàn bạc cách nối liền hai quân.
Họ bàn cả một đêm, chẳng mấy chốc đã thấy bình minh rực rỡ mọc lên từ sa mạc.
Khung Dực bước ra nhìn, bỗng chợt quay lại hỏi quan trấn thủ: "Tận cùng của dải Chinh Sa là nơi nào?"
"Bẩm Nhị vương tử, tận cùng dải Chinh Sa là đã đến rìa đông Đại Mạc.
Ở đó có một vịnh nước sâu, nơi mà ngựa chúng ta không chạy được, nước đó cũng không uống được."
Là biển cả.
Đại Thương là dân tộc chiến binh lớn lên trên lưng ngựa.
Những nơi vó ngựa không thể chạy, nước mà ngựa không thể uống, đối với họ là những nơi không lành, không nên bén mảng.
Do vậy, Đại Thương chưa hề phát triển hải quân, cũng không có khái niệm về việc phát triển nhánh này trong quân đội.
"Nếu từ đó tiếp tục đi xuống nữa, có phải sẽ đến núi rừng Mạc Bắc, gần biên giới Kinh Lạc?"
"Bẩm Nhị vương tử, đúng vậy.
Vịnh đó cũng nhỏ thôi, chạy dọc theo bờ chừng nửa ngày là sẽ đến núi rừng Mạc Bắc, tuy nhiên đoạn đó núi non hiểm trở, không thể trèo qua, cho nên vẫn phải đi đường chính từ Đại Mạc xuống thì mới tới Kinh Lạc.
Phía chúng ta có quân đồn trú Mạc Bắc, phía Kinh Lạc có quân của ải Bạch Vân, rừng mận nằm chắn ngay biên giới."
"Quân đội phía nam hiện nay do phó tướng của lão Lưu Mục nắm giữ đúng không?"
"Vâng, lão tướng Lưu Mục cuối năm vừa rồi đã cáo lão về quê, hiện giờ mảng quân đội phía nam do phó tướng Quảng Ngân Trình nắm giữ."
Khung Dực ngẩng lên nhìn trời, thấp thoáng một cánh liệp ưng chao liệng.
Hử, có phải hắn nhìn lầm không? Ưng này trông như ưng của núi rừng Tuyết Nhạn.
Sau khi Khung Dực quay về phương bắc, vài ngày sau tại phương nam